Từ khóa triệu chứng
Bàng quang tăng hoạt (overactive bladder - bàng quang tăng hoạt) là một nhóm các triệu chứng về tiết niệu, trong đó nổi bật nhất là tiểu gấp – tình trạng đột ngột buồn tiểu dữ dội. Đây là một vấn đề phổ biến. Ước tính có khoảng 16% dân số thế giới bị bàng quang tăng hoạt, tỷ lệ mắc ở nam giới và nữ giới là tương đương nhau.
Viêm cầu thận màng (membranous glomerulonephritis) là một loại viêm cầu thận. Viêm cầu thận màng xảy ra khi tình trạng viêm các cấu trúc thận gây ảnh hưởng đến chức năng của thận. Viêm cầu thận màng còn được gọi là viêm vi cầu thận màng, viêm cầu thận ngoài màng hay bệnh thận màng.
U lympho hay ung thư hạch (lymphoma) là một loại ung thư bắt đầu từ hệ miễn dịch. U lympho có thể lan rộng và ảnh hưởng đến các hạch bạch huyết, lá lách, gan, phổi hoặc thận. U lympho đã lan đến thận có thể được gọi là u lympho thận.
Hội chứng thận hư là tình trạng thận bị tổn thương và bài tiết quá nhiều protein vào nước tiểu. Bản thân hội chứng thận hư không phải là một căn bệnh. Hội chứng thận hư là kết quả của các bệnh làm tổn thương các mạch máu trong thận.
Viêm thận bể thận cấp là tình trạng thận bị nhiễm trùng đột ngột và nghiêm trọng. Tình trạng này khiến cho thận sưng lên và có thể làm hỏng thận vĩnh viễn. Viêm thận bể thận có thể đe dọa đến tính mạng.
Mặc dù cystin niệu là một bệnh lý mạn tính, có nghĩa là kéo dài suốt đời nhưng các triệu chứng thường bắt đầu xuất hiện ở độ tuổi 18 – 25,. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp triệu chứng xuất hiện ngay ở giai đoạn sơ sinh hoặc thanh thiếu niên.
Viêm cầu thận (glomerulonephritis) là tình trạng viêm xảy ra ở cầu thận, cấu trúc được tạo thành từ các mạch máu nhỏ trong thận. Điều này khiến thận không thể hoạt động bình thường.
Giai đoạn đầu của ung thư biểu mô tế bào thận đa phần không có triệu chứng. Các triệu chứng thường xuất hiện khi bệnh tiến triển sang các giai đoạn sau khi các khối u phát triển lớn hơn.
Cao huyết áp và suy thận mạn đều là những bệnh lý phổ biến. Hai bệnh lý này có thể xảy ra đồng thời và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cao huyết áp có thể dẫn đến suy thận mạn và ngược lại.
Sỏi thận là những khối cứng hình thành do khoáng chất trong nước tiểu lắng đọng ở thận. Tiêu chảy không phải một triệu chứng của sỏi thận nhưng có thể xảy ra sau phẫu thuật loại bỏ sỏi thận. Sỏi thận có thể gây ra một số triệu chứng về tiêu hóa như đau bụng, buồn nôn và nôn.
Bạn có thể giảm đau do nhiễm trùng đường tiết niệu bằng cách uống thuốc kê đơn và sử dụng các biện pháp khắc phục tại nhà, chẳng hạn như chườm ấm.
Suy thận mạn giai đoạn 3 là giai đoạn mà thận bị tổn thương mức độ nhẹ đến vừa, chức năng thận kém hơn so với giai đoạn 2. Lúc này, người bệnh sẽ bắt đầu gặp các triệu chứng rõ rệt hơn của suy thận mạn.
Nhiễm trùng đường tiết niệu xảy ra khi vi khuẩn, thường là từ cơ quan sinh dục hoặc hậu môn, xâm nhập vào đường tiết niệu. Mặc dù phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn nhưng nam giới cũng có thể bị nhiễm trùng đường tiết niệu.
Protein niệu có thể xảy ra do các tình trạng tạm thời như mất nước nhưng cũng có thể là do tổn thương thận nghiêm trọng.
Nhiễm trùng đường tiết niệu mạn tính là nhiễm trùng đường tiết niệu không đáp ứng với điều trị hoặc tiếp tục tái phát sau điều trị.
Suy thận cấp tính còn được gọi là tổn thương thận cấp, có thể xảy ra ở cả những người mắc bệnh thận mạn tính và những người có chức năng thận bình thường. Chức năng thận có thể suy giảm chỉ trong vòng vài giờ hoặc vài ngày đến vài tuần.
Thận là cơ quan có nhiệm vụ lọc dịch thừa và chất thải ra khỏi máu. Chất thải này sau đó sẽ đi ra ngoài theo nước tiểu. Suy thận mạn tính là tình trạng chức năng thận bị giảm hoặc mất hoàn toàn trong thời gian dài, có thể là nhiều tháng hoặc nhiều năm. Theo thời gian, chất thải và dịch sẽ tích tụ lại trong cơ thể. Tình trạng này còn được gọi là bệnh thận mạn tính.
Nhiễm trùng tuyến tiền liệt hay viêm tuyến tiền liệt là tình trạng tuyến tiền liệt và khu vực xung quanh bị viêm. Tuyến tiền liệt là một cơ quan có kích thước nhỏ nằm giữa bàng quang và gốc dương vật, bao quanh một phần niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài cơ thể và dẫn tinh dịch từ các tuyến sinh dục đến đến đầu dương vật).
Loại vi khuẩn gây nhiễm trùng đường tiết niệu và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) cũng chính là nguyên nhân chính gây viêm tuyến tiền liệt cấp tính. Vi khuẩn có thể đi theo máu đến tuyến tiền liệt.
Viêm tuyến tiền liệt có thể là do nhiễm vi khuẩn nhưng không phải lúc nào cũng xác định được nguyên nhân. Viêm tuyến tiền liệt gây ra các triệu chứng khó chịu như nóng rát khi đi tiểu, đi tiểu nhiều lần và đau ở thắt lưng. Viêm tuyến tiền liệt cũng có thể dẫn đến viêm ở vùng chậu.