Vi khuẩn nào gây bệnh bạch hầu?
1. Tác nhân gây bệnh bạch hầu
Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu có tên Corynebacterium diphtheria thuộc họ Corynebacteriaceae gồm 3 loại là Gravis, Mitis và Intermedius. Loại vi khuẩn này có khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài, có sức đề kháng cao ở ngoài cơ thể người và chịu được môi trường lạnh khô. Được chất nhầy bảo vệ, loại vi khuẩn này có thể sống trên đồ vật đến vài ngày hoặc vài tuần, tồn tại trên đồ vải đến 30 ngày. Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae có thể sống trong nước uống, sữa đến 20 ngày và tồn tại trong tử thi đã chết đến 2 tuần. Bên cạnh khả năng tồn tại lâu ở ngoài môi trường, vi khuẩn bạch hầu lại nhạy cảm dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp, vi khuẩn sẽ bị chết, vi khuẩn bạch hầu sống được khoảng 10 phút ở nhiệt độ 580C và khoảng 1 phút ở phenol 1% và cồn 60 độ.
2. Đặc điểm dịch tễ bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu thường xuất hiện nhiều ở những tháng có thời tiết lạnh ở vùng ôn đới. Bệnh có mùa, thường tản phát, có thể phát triển thành dịch nhất là ở trẻ dưới 15 tuổi nếu không được tiêm vắc-xin đầy đủ. Ở nước ta, bệnh thường bắt đầu xuất hiện nhiều vào các tháng 8,9,10 trong năm. Nhưng cho đến hiện tại khi chương trình tiêm chủng phòng ngừa bệnh bạch hầu đã được đẩy mạnh thì số ca mắc bệnh đã giảm xuống đáng kể, và không phải là căn bệnh quá nguy hiểm như trước kia.
3. Nguồn truyền nhiễm vi khuẩn Corynebacterium diphtheria
Ỏ người bệnh và người lành mang vi khuẩn bạch hầu được cho là ổ chứa vi khuẩn, là nguồn truyền nhiễm bệnh. Người bình thường mắc vi khuẩn bạch hầu sẽ có thể ủ bệnh trong 2- 5 ngày hoặc có thể lâu hơn, tùy vào tình trạng sức khỏe và khả năng phát triển của vi khuẩn trong cơ thể. Thời kỳ lây bệnh thường không định. Thông thường người bệnh đào thải vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, có thể ngay từ cuối thời kỳ ủ bệnh. Thời gian lây nhiễm kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn, nhưng hiếm khi trên 4 tuần. Những người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ 3-4 tuần, ít khi kéo dài đến 6 tháng. Người bệnh sẽ được khám, xét nghiệm và định hướng điều trị phù hợp có thể sử dụng kháng sinh để chấm dứt sự lây truyền bệnh.
4. Phương thức lây nhiễm vi khuẩn Corynebacterium diphtheria
Bệnh bạch hầu do vi khuẩn Corynebacterium diphtheria lây lan qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn. Ngoài ra còn có thể lây bệnh do tiếp xúc với đồ vật có dính chất bài tiết của người nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Sữa tươi cũng được khuyến cáo là nguồn có thể lây truyền bệnh bạch hầu.
5. Triệu chứng bệnh bạch hầu
Tùy vào vị trí vi khuẩn Corynebacterium diphtheria gây bệnh mà sẽ gây ra các triệu chứng khác nhau cụ thể như sau:
- Bệnh bạch hầu mũi trước: người bệnh sổ mũi, chảy mũi ra chất nhầy, đôi khi lẫn máu, khi khám thấy màng trắng ở vách ngăn mũi.
- Bệnh bạch hầu họng và amidan: Người bệnh mệt mỏi, đau cổ họng, sốt nhẹ, chán ăn. Tình trạng kéo dài 2-3 ngày thì xuất hiện đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amidan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Một số người bệnh có thể sưng nề vùng dưới hàm, sưng các hạch ở cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Các trường hợp nhiễm độc nặng, người bệnh bơ phờ, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Bệnh nhân nếu không được điều trị kịp thời sẽ có nguy cơ tử vong trong 6-10 ngày.
- Bệnh bạch hầu thanh quản: Là bệnh có thể tiến triển rất nhanh, nguy hiểm. Người bệnh có biểu hiện sốt, khàn giọng, ho ông ổng. Khám sẽ thấy các giả mạc tại ngay thanh quản hoặc từ họng lan xuống. Các giả mạc này nếu không điều trị kịp thời sẽ gây tắc đường thở làm bệnh nhân suy hô hấp và dẫn đến nguy cơ tử vong nhanh chóng.
- Bệnh bạch hầu ở các vị trí khác: thường hiếm và không quá nghiêm trọng, vi khuẩn có thể gây loét da, niêm mạch như mắt, âm đạo, ống tai.
6. Ai có nguy cơ cao nhiễm vi khuẩn bạch cầu?
- Trẻ em và người lớn không được tiêm vắc-xin bạch hầu;
- Những người hàng ngày phải sống trong điều kiện đông đúc, chật hẹp hoặc không đảm bảo vệ sinh.
- Tất cả những người đã và đang đi du dịch tại vùng dịch bệnh bạch hầu
7. Phòng ngừa vi khuẩn Corynebacterium diphtheria
Bên cạnh các biện pháp như vệ sinh sạch sẽ môi trường sống, cũng như đề phòng lây nhiễm khi có dịch, hạn chế tiếp xúc với người bệnh, thì phương pháp phòng bệnh tốt nhất chính là tiêm chủng vắc-xin ngừa bệnh. Vắc-xin bệnh bạch hầu được khuyến nghị tiêm theo chương trình tiêm chủng mở rộng. Ngừa bệnh bạch hầu hiện nay có thể sử dụng các vắc-xin 3 trong 1, 4 trong 1, 5 trong 1 hay 6 trong 1 cho trẻ từ 6 tuần tuổi đến 6 tuổi. Để phòng ngừa sớm nhất bệnh bạch hầu cho trẻ, từ 2 tháng tuổi trẻ có thể được tiêm phòng 4 mũi tiêm cơ bản lúc 2-3-4 tháng tuổi và liều nhắc lại lúc 18 tháng tuổi. Lịch chủng ngừa thông thường là 4 liều. Khoảng cách giữa các mũi tiêm tối thiểu là 4 tuần. Mũi tiêm thứ 4 cách mũi thứ 3 tối thiểu 6 tháng.
Bệnh thủy đậu là bệnh cấp tính do virus Varicella Zoster gây ra. Bệnh rất dễ lây truyền qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc với dịch tiết của bệnh nhân. Đặc biệt, virus có thể sống vài ngày trong vẩy bong của thủy đậu. Vì thế, cách phòng ngừa và tránh lây lan bệnh là đặc biệt quan trọng.
Thời điểm tốt nhất để tiêm phòng vắc-xin viêm gan B là từ lúc trẻ mới sinh ra, nếu muốn biết tình trạng của trẻ phù hợp với loại vắc-xin nào thì cần có sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa.
Bệnh bạch cầu là một loại ung thư phổ biến, chiếm 31% trong số các loại ung thư ở trẻ nhỏ. Tuy vậy những nghiên cứu cũng như các thống kê cụ thể về bệnh bạch cầu tại Việt Nam còn rất hạn chế. Bài viết sau sẽ cung cấp một số thông tin cần biết về khái niệm, phân loại và yếu tố nguy cơ của bệnh bạch cầu.
Nam giới có nguy cơ nhiễm bệnh sùi mào gà ở cuống lưỡi cao hơn khoảng gấp 3 lần so với nữ giới.
Vắc-xin Rubella là một loại vắc-xin thuộc nhóm dị ứng và hệ miễn dịch, nó hoạt động bằng cách kích thích cơ thể sản sinh ra các kháng thể chống lại bệnh. Nếu phụ nữ mang thai nhiễm bệnh này sẽ dẫn đến việc trẻ sinh ra thường bị các khuyết tật liên quan đến não, tim, mắt, tai...Vì vậy việc tiêm vắc-xin phòng ngừa là điều vô cùng cần thiết.
Bé có cần tiêm liều bổ sung nhắc lại không nếu xét nghiệm máu cho thấy bé đã có miễn dịch với bệnh?
- Bác sĩ cho tôi hỏi, bé nhà tôi có cần phải tiêm liều vắc xin bổ sung nhắc lại không, nếu xét nghiệm máu cho thấy bé đã miễn dịch với bệnh? Cảm ơn bác sĩ!
- 1 trả lời
- 1156 lượt xem
Nếu không ai mắc những bệnh này nữa, tại sao trẻ vẫn cần tiêm phòng?
- Tôi có một thắc mắc là nếu không ai mắc bệnh nữa, tại sao vẫn phải cho trẻ tiêm phòng? Bác sĩ giải đáp giúp tôi!
- 1 trả lời
- 981 lượt xem
Trẻ có thể vẫn bị bệnh sau khi đã được tiêm phòng?
-Thưa bác sĩ, trẻ đã tiêm phòng vẫn có thể bị bệnh, phải không ạ?
- 1 trả lời
- 809 lượt xem
Có phải vắc-xin có thể gây ra bệnh mà nó phòng không?
Thưa bác sĩ, tôi nghe nhiều người nói, vắc xin có thể gây ra chính bệnh mà nó phòng. Điều này có đúng không, thưa bác sĩ?
- 1 trả lời
- 931 lượt xem
Có đúng là tiêm phòng cúm bạn sẽ bị bệnh cúm?
- Bác sĩ ơi, có đúng là tiêm phòng cúm chúng ta sẽ bị bệnh cúm không ạ? Cảm ơn bác sĩ!
- 1 trả lời
- 830 lượt xem
Vắc xin cho hiệu quả khá ấn tượng, nhưng bạn vẫn có thể mắc bệnh dù đã tiêm phòng rồi.
Có một số người băn khoăn là Vắc - xin viên gan B có làm tăng nguy cơ mắc bệnh đa xơ cứng không? Hãy tìm hiểu qua bài viết đưới đây để cùng có câu trả lời nhé!
Đưa vi khuẩn vào cơ thể để tạo miễn dịch - ý tưởng chính từ việc tiêm chủng – dường như có vẻ là một ý tưởng hiện đại, nhưng thực tế nó đã trải qua hàng thế kỷ. Lịch sử thú vị của bệnh đậu mùa đã tiết lộ khoảng thời gian áp dụng ý tưởng tuyệt vời này.
Nguồn dinh dưỡng chất lượng hơn và áp dụng biện pháp vệ sinh tốt hơn thực sự đã cải thiện cuộc sống của chúng ta - chúng ta đang cao hơn, khỏe mạnh hơn và sạch sẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, nhìn vào tỷ lệ mắc bệnh thực tế trong nhưng năm qua, không còn nghi ngờ gì nữa, vắc xin mới là yếu tố đóng vai trò chính trong hiệu quả làm suy giảm các ca bệnh mà chúng phòng chống.