Thuốc ức chế integrase trong điều trị HIV
Thuốc ức chế men tích hợp integrase là một loại thuốc kháng retrovirus (thuốc ARV) được sử dụng để điều trị HIV. Nhờ những loại thuốc này mà hiện nay HIV đã là một căn bệnh có thể kiểm soát được và số ca tử vong do HIV/AIDS đã giảm đáng kể trong nhiều năm trở lại đây.
Dưới đây là cơ chế hoạt động của HIV khi vào cơ thể, cách mà thuốc ức chế integrase kiểm soát tình trạng bệnh và những phương pháp để đánh giá hiệu quả của thuốc.
HIV hoạt động như thế nào?
Thuốc ức chế integrase tác động đến cách mà HIV gây hại cho cơ thể. Và để hiểu được điều này thì trước tiên cần biết các con đường lây truyền HIV.
HIV lây truyền từ người sang người qua sự trao đổi các chất dịch cơ thể, gồm có máu, tinh dịch, dịch hậu môn, dịch tiết âm đạo và sữa mẹ. Virus này không lây truyền qua nước bọt, mồ hôi, nước tiểu, không khí, dùng chung dụng cụ ăn uống hay tiếp xúc ngoài da thông thường.
Một khi vào cơ thể, HIV sẽ tấn công tế bào CD4 (tế bào T) - một nhóm tế bào bạch cầu. Đây là những tế bào giúp hệ miễn dịch tấn công các tác nhân có hại như virus và vi khuẩn. HIV xâm nhập vào các tế bào T này và kiểm soát chúng.
HIV thực hiện điều này bằng cách tạo ra một loại enzyme có tên là integrase. Integrase cho phép DNA của virus hợp nhất với DNA của tế bào CD4. Sau đó, HIV có thể kiểm soát các tế bào. Nếu không được điều trị, HIV sẽ dần dần phá hủy rất nhiều tế bào CD4 và làm giảm số lượng tế nào trong cơ thể. Lúc này, các tế bào CD4 sẽ không còn khả năng phát tín hiệu cho hệ miễn dịch để chống lại nhiễm trùng và các bệnh khác, gồm có cả ung thư. Đó là lý do tại sao người nhiễm HIV lại dễ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội và một số bệnh ung thư.
Cơ chế tác dụng của thuốc ức chế integrase
Thuốc ức chế integrase ngăn không cho HIV tạo ra enzyme integrase. Khi không có sự trợ giúp của enzyme này, HIV sẽ không thể xâm chiếm các tế bào CD4 để tiến hành tự sao chép và nhân lên.
Khi kết hợp với các loại thuốc ARV khác, thuốc ức chế integrase có thể kiểm soát hiệu quả tình trạng nhiễm HIV.
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cho phép sử dụng thuốc ức chế integrase đê điều trị HIV vào năm 2007. Một số thuốc ức chế integrase hiện có trên thị trường:
- raltegravir (Isentress)
- dolutegravir (Tivicay)
- elvitegravir (là thành phần trong các loại thuốc kết hợp)
- bictegravir (là thành phần trong các loại thuốc kết hợp)
Dolutegravir và elvitegravir có trong các loại thuốc kết hợp sau:
- Genvoya (elvitegravir, emtricitabine, tenofovir alafenamide fumarate, cobicistat)
- Stribild (elvitegravir, emtricitabine, tenofovir disoproxil fumarate, cobicistat)
- Triumeq (dolutagravir, abacavir, lamivudine)
- Juluca (dolutegravir, rilpivirine)
- Biktarvy (bictegravir, emtricitabine, tenofovir alafenamide fumarate)
Thuốc ức chế integrase thường được sử dụng trong phác đồ điều trị HIV ban đầu và dùng cùng với các loại thuốc khác. Chúng thường được đưa vào trong cùng một viên thuốc (thuốc kết hợp) để tiện sử dụng.
Mỗi thành phần trong những loại thuốc kết hợp này sẽ can thiệp vào các cơ chế hoạt động khác nhau của HIV.
Tác dụng phụ của thuốc ức chế integrase
Thuốc ức chế integrase có ít tác dụng phụ hơn so với các nhóm thuốc điều trị HIV khác vì hoạt động trên chính virus chứ không phải trên các tế bào mà HIV xâm chiếm. Một số tác dụng phụ phổ biến nhất khi dùng thuốc ức chế integrase gồm có:
- Tiêu chảy
- Buồn nôn
- Mệt mỏi
- Đau đầu
- Mất ngủ
- Chóng mặt
Trong một số ít trường hợp, thuốc ức chế integrase còn gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn, ví dụ như phản ứng da nghiêm trọng và viêm lan rộng.
Nếu đang dùng thuốc ức chế integrase và bắt đầu có các hiện tượng khó chịu thì không được ngừng thuốc mà phải thông báo cho bác sĩ để được hướng dẫn.
Tự ý ngừng hoặc đổi thuốc ARV sẽ gây ra nhiều vấn đề. Thuốc sẽ trở nên kém hiệu quả hơn và virus có thể phát triển khả năng kháng thuốc. Điều này có nghĩa là thuốc sẽ không còn khả năng kiểm soát sự phát triển của virus nữa.
Khi xảy ra tác dụng phụ, căn cứ vào mức độ nghiêm trọng mà bác sĩ có thể sẽ kê thuốc để khắc phục hoặc đổi sang một loại thuốc ARV khác.
Cách đánh giá hiệu quả của thuốc
Trong quá trình điều trị HIV, bệnh nhân sẽ cần làm xét nghiệm máu định kỳ, thường là 3 đến 6 tháng một lần nhằm theo dõi sự tiến triển của bệnh và đánh giá hiệu quả của phác đồ điều trị.
Hai phương pháp để đánh giá hiệu quả của thuốc ức chế integrase là xét nghiệm đo tải lượng virus và số lượng tế bào CD4.
Đo tải lượng virus
Tải lượng virus là số lượng bản sao HIV trong một đơn vị máu nhất định. Bác sĩ sẽ lấy mẫu máu và sau đó gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra. Tải lượng virus càng thấp thì số lượng HIV trong cơ thể càng ít. Mục tiêu của các phương pháp điều trị HIV là làm giảm tải lượng virus xuống mức không thể phát hiện.
Tải lượng virus không thể phát hiện là khi số lượng HIV trong máu ít đến mức mà xét nghiệm không phát hiện ra được. Tuy nhiên, tải lượng virus không thể phát hiện không có nghĩa là người đó đã được chữa khỏi HIV. Virus vẫn đang tồn tại trong các chất dịch cơ thể và một khi ngừng điều trị thì tải lượng virus sẽ tăng cao trở lại. Do đó, người bệnh vẫn phải tiếp tục điều trị bằng thuốc ARV.
Số lượng tế bào CD4
Ngoài tải lượng virus, xét nghiệm máu định kỳ ở người nhiễm HIV còn cho biết số lượng tế bào CD4 trong cơ thể. Đây là một chỉ số để đánh giá chức năng miễn dịch. Nói chung, càng nhiều tế bào CD4 trong cơ thể thì hệ miễn dịch càng khỏe và khả năng chống lại nhiễm trùng càng cao.
Số lượng tế bào CD4 liên tục thay đổi. Điều này xảy ra ở tất cả mọi người, cho dù có nhiễm HIV hay không.
Dù kết quả xét nghiệm cho thấy số lượng tế bào CD4 hơi có sự sụt giảm thì cũng chưa chắc là do thuốc điều trị HIV không hiệu quả. Bệnh tật, tiêm vắc-xin, mệt mỏi, căng thẳng và thậm chí cả thời điểm làm xét nghiệm trong ngày đều có thể ảnh hưởng tạm thời đến số lượng tế bào CD4.
Lưu ý khi dùng thuốc
Nồng độ thuốc ức chế integrase cần phải ở mức ổn định trong cơ thể thì mới có thể phát huy hiệu quả tối đa. Để thực hiện điều này thì những người nhiễm HIV cần:
- Uống thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ.
- Hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng bất kỳ loại thuốc nào khác. Một số loại thuốc khác, bao gồm cả thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc ARV, chẳng hạn như canxi, thuốc kháng axit dạ dày cũng như là các loại vitamin và thực phẩm chức năng.
Khi được dùng đúng cách, thuốc ức chế integrase sẽ giúp cải thiện sức khỏe cho người nhiễm HIV.
Sự ra đời của liệu pháp kháng virus đã tạo ra sự thay đổi lớn trong điều trị và phòng ngừa HIV. Phương pháp này đã mang lại hy vọng mới cho những người nhiễm HIV, giúp người bệnh có cuộc sống khỏe mạnh bình thường và tuổi thọ lâu dài.
Hiện chưa có cách chữa trị khỏi HIV nhưng người nhiễm HIV có thể điều trị bằng thuốc kháng retrovirus hay thuốc ARV để kiểm soát tình trạng bệnh.
Hiện nay, có hơn 40 loại thuốc kháng virus khác nhau đã được phê chuẩn để điều trị HIV. Hầu hết những người nhiễm HIV đều phải dùng từ 2 loại thuốc ARV trở lên và phải uống thuốc đều đặn trong suốt phần đời còn lại.
Hãy cùng điểm qua những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong cuộc chiến đấu chống lại HIV.
Khoảng 30 năm về trước, khi một người nhận được kết quả chẩn đoán nhiễm HIV thì đó chẳng khác nào bị tuyên án “tử hình”. Tuy nhiên ngày nay, đây lại là một tình trạng sức khỏe hoàn toàn có thể kiểm soát được.