Các loại thuốc điều trị HIV
Ảnh hưởng của HIV lên cơ thể
HIV là một loại virus gây suy giảm miễn dịch. Virus này lây truyền qua sự tiếp xúc với máu, tinh dịch, dịch âm đạo, dịch hậu môn và sữa mẹ của người bệnh. HIV nhắm vào hệ miễn dịch và xâm nhập vào tế bào T - các tế bào bạch cầu có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây hại như vi khuẩn, virus.
Sau khi xâm nhập vào các tế bào T, HIV sẽ nhân lên (tạo ra các bản sao của chính nó). Sau đó, các tế bào sẽ bị phá hủy và vỡ ra. Virus bên trong sẽ được giải phóng ra ngoài và tiếp tục xâm nhập vào các tế bào khỏe mạnh khác trong cơ thể.
Quá trình này làm suy yếu khả năng chống lại nhiễm trùng của hệ miễn dịch và khiến cho cơ thể dễ mắc bệnh.
Hiện chưa có cách chữa trị khỏi HIV nhưng người nhiễm HIV có thể điều trị bằng thuốc kháng retrovirus hay thuốc kháng virus (thuốc ARV) để kiểm soát tình trạng bệnh, duy trì hệ miễn dịch và sống một cách khỏe mạnh. Những loại thuốc này hoạt động với cơ chế là ngăn không cho HIV nhân lên.
Dưới đây là danh sách các loại thuốc kháng virus hiện đang được sử dụng để điều trị HIV.
Các nhóm thuốc điều trị HIV
Có nhiều nhóm thuốc kháng virus khác nhau được sử dụng để điều trị HIV và tất cả đều là thuốc kê đơn. Bác sĩ sẽ chỉ định phác đồ điều trị thích hợp cho từng trường hợp dựa trên các yếu tố như:
- Tải lượng virus
- Số lượng tế bào T
- Chủng HIV bị nhiễm
- Mức độ nghiêm trọng của tình trạng
- HIV đã lây lan bao xa trong cơ thể
- Các vấn đề sức khỏe mãn tính khác, hay còn được gọi là bệnh đồng mắc
- Các loại thuốc khác mà người bệnh đang dùng để tránh xảy ra tương tác giữa thuốc ARV điều trị HIV và các loại thuốc khác
Người nhiễm HIV cần điều trị bằng ít nhất 2 loại thuốc khác nhau và những loại thuốc này đôi khi được kết hợp lại trong cùng một viên. Mục đích cần điều trị bằng 2 loại thuốc trở lên là để tấn công HIV từ nhiều hướng, từ đó làm giảm tải lượng virus nhanh hơn và cách này đã được chứng minh là có thể kiểm soát HIV một cách hiệu quả.
Việc uống nhiều loại thuốc kháng virus cùng lúc còn giúp ngăn ngừa tình trạng HIV kháng thuốc. Điều này có nghĩa là thuốc sẽ cho hiệu quả cao hơn.
Người nhiễm HIV có thể được kê từ 2 đến 4 thuốc kháng virus riêng lẻ hoặc được kê một loại thuốc kết hợp. Thuốc kết hợp có chứa từ 2 loại thuốc khác nhau trở lên trong cùng một viên, thường là dạng viên nén.
Các nhóm thuốc kháng virus chính để điều trị HIV gồm có:
- Thuốc ức chế integrase (INSTI)
- Thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược nucleoside (NRTI)
- Thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược không phải nucleoside (NNRTI)
- Thuốc ức chế CYP3A
- Thuốc ức chế protease (PI)
- Thuốc ức chế hòa màng
- Thuốc ức chế sau gắn kết
- Thuốc đối kháng CCR5
- Thuốc ức chế xâm nhập
- Thuốc kết hợp
Thuốc ức chế integrase (INSTI)
Thuốc ức chế integrase (integrase inhibitor) có tác dụng ngăn cản hoạt động của integrase - một loại enzyme mà virus HIV sử dụng để xâm nhập vào tế bào T bằng cách đưa DNA của virus vào DNA của người bệnh.
Thuốc ức chế integrase thường là một trong những loại thuốc ARV đầu tiên được kê cho những người mới nhiễm HIV. Lý do là bởi nhóm thuốc này có hiệu quả cao và lại đi kèm ít tác dụng phụ.
Các thuốc ức chế integrase gồm có:
- bictegravir (không có ở dạng thuốc độc lập mà một phần trong thuốc kết hợp Biktarvy)
- dolutegravir (Tivicay)
- elvitegravir (không có ở dạng thuốc độc lập mà một phần trong thuốc kết hợp Genvoya và Stribild)
- raltegravir (Isentress, Isentress HD)
Những thuốc này nằm trong một phân nhóm của thuốc ức chế integrase gọi là thuốc ức chế integrase (integrase strand transfer inhibitor - INSTI). INSTI đã được đưa vào sử dụng chính thức từ lâu và đã được chứng minh về tính hiệu quả. Ngoài ra còn có các nhóm thuốc ức chế integrase khác như thuốc ức chế gắn kết integrase (integrase binding inhibitor - INBI) nhưng hiện tại mới chỉ là thuốc thử nghiệm chứ chưa được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận sử dụng để điều trị HIV.
Thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược nucleoside/nucleotide (NRTI)
Thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược nucleoside/nucleotide (nucleoside/nucleotide reverse transcriptase inhibitor - NRTI) hoạt động với cơ chế làm gián đoạn vòng đời của HIV khi virus tự tạo bản sao. Nhóm thuốc này ngăn không cho HIV nhân lên trong cơ thể.
Các thuốc trong nhóm NRTI gồm có:
- abacavir (Ziagen)
- emtricitabine (Emtriva)
- lamivudine (Epivir)
- tenofovir alafenamide fumarate (Vemlidy)
- tenofovir disoproxil fumarate (Viread)
- zidovudine (Retrovir)
Dạng độc lập của thuốc tenofovir alafenamide fumarate đã được FDA chính thức chấp thuận để điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính nhưng mới chỉ được phê chuẩn là thuốc thử nghiệm trong điều trị HIV. Trong tương lai, tenofovir alafenamide fumarate có thể sẽ được sử dụng trong thuốc kết hợp để điều trị HIV chứ không phải là thuốc độc lập.
Tenofovir disoproxil fumarate, emtricitabine và lamivudine cũng có thể điều trị viêm gan B.
Zidovudine là thuốc điều trị HIV đầu tiên được FDA chấp thuận. Thuốc này còn có tên là azidothymidine hay AZT. Zidovudine hiện nay hiếm khi được sử dụng cho người lớn mà chủ yếu được dùng cho trẻ sơ sinh có mẹ bị nhiễm HIV như một hình thức điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (PEP).
Các loại NRTI kết hợp
Dưới đây là các loại thuốc kết hợp được tạo thành từ 2 hoặc 3 thuốc trong nhóm NRTI:
- abacavir, lamivudine và zidovudine (Trizivir)
- abacavir và lamivudine (Epzicom)
- emtricitabine và tenofovir alafenamide fumarate (Descovy)
- emtricitabine và tenofovir disoproxil fumarate (Truvada)
- lamivudine và tenofovir disoproxil fumarate (Cimduo, Temixys)
- lamivudine và zidovudine (Combivir)
Descovy và Truvada cũng được kê cho những người chưa bị nhiễm HIV nhưng có nguy cơ cao trong phác đồ điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP).
Các NRTI hiếm khi được sử dụng
Các NRTI dưới đây hiếm khi được sử dụng và sẽ bị nhà sản xuất ngừng sản xuất:
- didanosine (Videx, Videx EC)
- stavudine (Zerit)
Thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược không phải nucleoside (NNRTI)
Thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược không phải nucleoside (non-nucleoside reverse transcriptase inhibitor - NNRTI) hoạt động theo cách tương tự như NRTI, đó là ngăn không cho HIV tự nhân lên trong cơ thể.
Các thuốc trong nhóm này gồm có:
- doravirine (Pifeltro)
- efavirenz (Sustiva)
- etravirine (Intelence)
- nevirapine (Viramune, Viramune XR)
- rilpivirine (Edurant)
Một số NNRTI hiếm khi được sử dụng
Delavirdine (Rescriptor) là một loại NNRTI mà hiện hiếm khi được sử dụng và đã bị ngừng sản xuất từ năm 2018.
Thuốc ức chế cytochrome P450-3A (CYP3A)
Cytochrome P450-3A là một loại enzyme trong gan giúp hỗ trợ một số chức năng trong cơ thể, bao gồm phân hủy và chuyển hóa thuốc. Thuốc ức chế cytochrome P450-3A (cytochrome P450-3A inhibitor), hay còn được gọi là thuốc ức chế CYP3A (CYP3A inhibitor) có tác dụng làm tăng nồng độ của một số loại thuốc điều trị HIV (cũng như là các loại thuốc điều trị bệnh khác) trong cơ thể.
Các thuốc ức chế CYP3A gồm có:
- cobicistat (Tybost)
- ritonavir (Norvir)
Cobicistat không có tác dụng thúc đẩy hiệu quả chống HIV khi được sử dụng một mình nên thuốc này luôn được kết hợp với một loại thuốc ARV khác.
Ritonavir có thể thúc đẩy hiệu quả chống HIV khi được sử dụng một mình. Tuy nhiên, để đạt được điều này thì phải được sử dụng với liều lượng cao hơn nhiều so với mức mà đa số mọi người có thể chịu được. Do đó, ritonavir thường được kê cùng với các loại thuốc ARV khác để tăng cường hiệu quả. Thuốc này giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại thuốc khác.
Thuốc ức chế protease (PI)
Thuốc ức chế protease (protease inhibitor - PI) có cơ chế hoạt động là liên kết với protease – một loại enzyme mà HIV cần để nhân lên trong cơ thể. Khi không có protease để sử dụng thì HIV sẽ không thể hoàn thành quá trình tạo ra bản sao mới. Điều này làm giảm số lượng virus và ngăn virus xâm nhập sang nhiều tế bào khác.
Một số thuốc ức chế protease chỉ được FDA chấp thuận để điều trị viêm gan siêu vi C và những loại thuốc này khác với những loại được dùng để điều trị HIV.
Các thuốc ức chế protease để điều trị HIVgồm có:
- atazanavir (Reyataz)
- darunavir (Prezista)
- fosamprenavir (Lexiva)
- lopinavir (không có ở dạng thuốc độc lập mà được kết hợp với ritonavir trong thuốc Kaletra)
- ritonavir (Norvir)
- tipranavir (Aptivus)
Thuốc ức chế protease gần như luôn được sử dụng kèm với cobicistat hoặc ritonavir (các thuốc ức chế CYP3A). Ritonavir vừa là thuốc ức chế CYP3A vừa là thuốc ức chế protease.
Ritonavir thường được sử dụng để tăng cường hiệu quả của các loại thuốc điều trị HIV khác.
Lopinavir hiện không có ở dạng thuốc độc lập mà là một thành phần trong Kaletra - một loại thuốc ARV kết hợp có chứa cả ritonavir.
Tipranavir có ở dạng thuốc độc lập nhưng phải được dùng kèm với ritonavir.
Ngay cả khi thuốc ức chế protease có thể sử dụng được ở dạng thuốc độc lập thì cũng phải luôn kết hợp với các loại thuốc điều trị HIV khác để tạo ra một phác đồ hoàn chỉnh. Việc điều trị bằng từ hai loại thuốc ARV trở lên được gọi là liệu pháp kháng virus.
Atazanavir và fosamprenavir thường được dùng cùng với ritonavir nhưng không bắt buộc. Trong một số trường hợp, có thể sử dụng hai thuốc này mà không cần thuốc ức chế CYP3A.
Atazanavir và darunavir có thể được sử dụng cùng với cobicistat.
Các PI hiếm khi được sử dụng
Các loại thuốc ức chế protease sau đây hiếm khi được sử dụng vì đi kèm nhiều tác dụng phụ:
- indinavir (Crixivan)
- nelfinavir (Viracept)
- saquinavir (Invirase)
Indinavir thường được dùng cùng với ritonavir nhưng điều này là không bắt buộc trong khi saquinavir bắt buộc phải dùng kèm với ritonavir. Có thể sử dụng nelfinavir mà không cần ritonavir hay cobicistat.
Thuốc ức chế hòa màng
Thuốc ức chế hòa màng (fusion inhibitor) cũng là một nhóm thuốc điều trị HIV.
HIV cần một tế bào T chủ để tạo ra các bản sao của chính nó. Các thuốc ức chế hòa màng ngăn cản virus thực hiện được điều này và từ đó ngăn không cho virus nhân lên.
Thuốc ức chế hòa màng ít được sử dụng để điều trị HIV vì có các loại thuốc khác hiệu quả hơn và được dung nạp tốt hơn.
Hiện chỉ có một loại thuốc ức chế hòa màng duy nhất là enfuvirtide (Fuzeon).
Thuốc ức chế sau gắn kết
Vì HIV ảnh hưởng đến hệ miễn dịch nên các nhà nghiên cứu hiện vẫn đang tìm các cách mà thuốc sinh học có thể ngăn chặn sự nhân lên của virus. Một số phương pháp điều trị dựa trên chính hệ miễn dịch của cơ thể đã cho thấy thành công bước đầu trong các thử nghiệm lâm sàng.
Vào năm 2018, loại thuốc điều trị dựa trên miễn dịch đầu tiên đã nhận được sự chấp thuận của FDA để điều trị HIV, đó là ibalizumab-uiyk (Trogarzo).
Thuốc này thuộc nhóm thuốc ức chế sau gắn kết (post-attachment inhibitor), có tác dụng ngăn không cho HIV xâm nhập vào các tế bào miễn dịch. Ibalizumab-uiyk phải được sử dụng với các thuốc kháng virus khác trong liệu pháp nền tối ưu hóa (optimized background therapy).
Thuốc đối kháng đồng thụ thể chemokine (thuốc đối kháng CCR5)
Thuốc đối kháng đồng thụ thể chemokine (chemokine coreceptor antagonist) hay thuốc đối kháng CCR5 (CCR5 antagonist) ngăn chặn HIV xâm nhập vào tế bào. Thuốc đối kháng CCR5 ít khi được sử dụng vì có các loại thuốc khác hiệu quả hơn và thuốc này đòi hỏi phải tiến hành xét nghiệm đặc biệt trước khi sử dụng.
Hiện chỉ có một loại thuốc đối kháng CCR5 duy nhất là maraviroc (Selzentry).
Thuốc ức chế xâm nhập
Các thuốc ức chế hòa màng, thuốc ức chế sau gắn kết và thuốc đối kháng CCR5 đều thuộc một nhóm thuốc ARV lớn hơn gọi là thuốc ức chế xâm nhập (entry inhibitor). Tất cả các thuốc ức chế xâm nhập đều hoạt động với cơ chế là ngăn cản HIV xâm nhập vào các tế bào T khỏe mạnh. Những loại thuốc này hiếm khi là phương pháp điều trị ưu tiên cho những trường hợp nhiễm HIV.
Các thuốc ức chế xâm nhập gồm có:
- enfuvirtide (Fuzeon)
- ibalizumab-uiyk (Trogarzo)
- maraviroc (Selzentry)
Thuốc kết hợp
Thuốc kết hợp có chứa nhiều loại thuốc khác nhau trong cùng một viên thuốc. Các loại thuốc này thường được sử dụng cho những người chưa bao giờ dùng thuốc ARV để điều trị HIV trước đây.
Các thuốc kết hợp được tạo nên từ thuốc ức chế protease và thuốc ức chế CYPA3A:
- atazanavir và cobicistat (Evotaz)
- darunavir và cobicistat (Prezcobix)
- lopinavir và ritonavir (Kaletra)
Thuốc ức chế CYPA3A có vai trò tăng cường hiệu quả của thuốc.
Các thuốc kết hợp chỉ có NRTI (chứa các loại thuốc khác nhau trong cùng nhóm NRTI):
- abacavir, lamivudine và zidovudine (Trizivir)
- abacavir và lamivudine (Epzicom)
- emtricitabine và tenofovir alafenamide fumarate (Descovy)
- emtricitabine và tenofovir disoproxil fumarate (Truvada)
- lamivudine và tenofovir disoproxil fumarate (Cimduo, Temixys)
- lamivudine và zidovudine (Combivir)
Các thuốc kết hợp được tạo nên từ NRTI và NNRTI:
- doravirine, lamivudine và tenofovir disoproxil fumarate (Delstrigo)
- efavirenz, lamivudine và tenofovir disoproxil fumarate (Symfi)
- efavirenz, lamivudine và tenofovir disoproxil fumarate (Symfi Lo)
- efavirenz, emtricitabine và tenofovir disoproxil fumarate (Atripla)
- emtricitabine, rilpivirine và tenofovir alafenamide fumarate (Odefsey)
- emtricitabine, rilpivirine và tenofovir disoproxil fumarate (Complera)
Symfi và Symfi Lo được tạo thành từ các loại thuốc gốc giống nhau. Tuy nhiên, Symfi Lo chứa efavirenz liều thấp hơn Symfi.
Các thuốc kết hợp được tạo thành từ NRTI, INSTI và cobicistat (một loại thuốc ức chế CYP3A):
- elvitegravir, cobicistat, emtricitabine và tenofovir disoproxil fumarate (Stribild)
- elvitegravir, cobicistat, emtricitabine và tenofovir alafenamide fumarate (Genvoya)
Các thuốc kết hợp được tạo thành từ ít nhất một thuốc trong nhóm NRTI và một thuốc trong nhóm INSTI:
- abacavir, dolutegravir và lamivudine (Triumeq)
- bictegravir, emtricitabine và tenofovir alafenamide fumarate (Biktarvy)
- dolutegravir và lamivudine (Dovato)
Thuốc kết hợp được tạo nên từ NNRTI và INSTI:
- dolutegravir và rilpivirine (Juluca)
Thuốc kết hợp được tạo nên từ NRTI, PI và cobicistat:
- darunavir, cobicistat, emtricitabine và tenofovir alafenamide fumarate (Symtuza)
Thuốc kết hợp đa phần được tạo thành từ các nhóm thuốc khác nhau chứ ít khi có chứa các thuốc thuộc cùng một nhóm. Chúng được gọi là thuốc kết hợp nhiều nhóm. Và khi người bệnh chỉ cần dùng một viên thuốc kết hợp mỗi ngày thì sẽ được gọi là phác đồ điều trị một viên (single-tablet regimenSTR).
Tác dụng phụ của thuốc điều trị HIV
Giống như nhiều loại thuốc khác, các thuốc ARV điều trị HIV đều có thể gây ra một số tác dụng phụ, đa phần chỉ là tạm thời và xảy ra trong thời gian đầu mới dùng thuốc. Những tác dụng phụ này gồm có:
- Tiêu chảy
- Chóng mặt
- Đau đầu
- Mệt mỏi
- Sốt
- Buồn nôn
- Phát ban
- Nôn mửa
Tác dụng phụ thường xảy ra trong vài tuần đầu tiên. Nếu các tác dụng phụ ngày càng nặng hơn hoặc kéo dài quá một vài tuần mà không hết thì cần báo cho bác sĩ. Bác sĩ sẽ hướng dẫn các cách để khắc phục hoặc kê các loại thuốc khác.
Trong một số ít trường hợp, thuốc ARV gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc kéo dài. Tác dụng phụ mà mỗi người gặp phải sẽ phụ thuộc vào loại thuốc cụ thể được sử dụng. Khi kê thuốc, bác sĩ sẽ nói chi tiết.
Tóm tắt bài viết
Hiện vẫn chưa có cách chữa khỏi HIV nhưng thuốc kháng virus có thể làm chậm sự tiến triển, ngăn HIV gây tổn hại hệ miễn dịch, giảm các triệu chứng và giúp người nhiễm HIV có thể sống khỏe mạnh hơn. Khi điều trị sớm và dùng thuốc đều đặn thì sẽ có thể ngăn HIV tiến triển sang giai đoạn cuối – AIDS và giảm tải lượng virus xuống mức không thể phát hiện. Ở mức này, khả năng lây truyền HIV sang người khác là gần như bằng không.
Có nhiều nhóm thuốc kháng retrovirus khác nhau được sử dụng trong điều trị HIV và một trong số đó là thuốc ức chế protease.
Thuốc ức chế integrase tác động đến cách mà HIV xâm chiếm các tế bào trong cơ thể.
Khoảng 30 năm về trước, khi một người nhận được kết quả chẩn đoán nhiễm HIV thì đó chẳng khác nào bị tuyên án “tử hình”. Tuy nhiên ngày nay, đây lại là một tình trạng sức khỏe hoàn toàn có thể kiểm soát được.
Sự ra đời của liệu pháp kháng virus đã tạo ra sự thay đổi lớn trong điều trị và phòng ngừa HIV. Phương pháp này đã mang lại hy vọng mới cho những người nhiễm HIV, giúp người bệnh có cuộc sống khỏe mạnh bình thường và tuổi thọ lâu dài.
Triệu chứng phát ban HIV nhận biết như thế nào? Những nguyên nhân và phương pháp điều trị ra sao. Khi gặp phải những triệu chứng phát ban thì cần đi khám ở đâu. Hãy cùng tìm hiểu chi tiết qua bài viết dưới đây nhé