Điều trị loãng xương sau mãn kinh
Nguyên nhân gây loãng xương sau mãn kinh
Ước tính có khoảng 50% phụ nữ sau mãn kinh bị loãng xương và mãn kinh là nguyên nhân chính gây ra bệnh loãng xương ở phụ nữ. (1)
Mãn kinh là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa, xảy ra do sự suy giảm chức năng buồng trứng. Buồng trứng giảm dần và cuối cùng ngừng sản xuất estrogen. Điều này dẫn đến sự kết thúc vĩnh viễn chu kỳ kinh nguyệt và khả năng sinh sản của phụ nữ. Tuy nhiên, đây không phải là những thay đổi duy nhất vào thời kỳ mãn kinh. Sự thiếu hụt estrogen còn ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và hệ thống khác trong cơ thể, trong đó có xương.
Mặc dù xương rất cứng nhưng thực ra xương được tạo nên bởi các mô sống liên tục được phân hủy và tái tạo. Estrogen có vai trò quan trọng đối với quá trình này. Estrogen giúp thúc đẩy sự tái tạo xương trong khi làm chậm tốc độ phân hủy xương, nhờ đó giữ cho xương chắc khỏe. Đó là lý do tại sao sự thiếu estrogen vào thời kỳ mãn kinh làm giảm mật độ xương và dẫn đến loãng xương.
Bên cạnh nồng độ estrogen, khoảng thời gian kể từ khi phụ nữ bước vào giai đoạn hậu mãn kinh cũng có ảnh hưởng đến nguy cơ loãng xương. Trong một nghiên cứu về nguy cơ loãng xương, những phụ nữ đã mãn kinh 20 năm có nguy cơ mắc bệnh loãng xương cao hơn đáng kể. (2) Thời gian bị thiếu estrogen càng kéo dài thì nguy cơ loãng xương càng tăng.
Mỗi phụ nữ bắt đầu thời kỳ mãn kinh ở độ tuổi khác nhau. Nguy cơ loãng xương phụ thuộc vào việc đã mãn kinh được bao lâu chứ không phụ thuộc vào độ tuổi mãn kinh.
Các yếu tố nguy cơ khác
Mặc dù mãn kinh là yếu tố chính làm tăng nguy cơ loãng xương ở phụ nữ nhưng ngoài ra còn có những yếu tố nguy cơ khác, gồm có:
- Thiếu dinh dưỡng: Chế độ ăn uống không cung cấp đủ dưỡng chất hoặc khả năng hấp thu kém có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương.
- Uống nhiều rượu: Thường xuyên uống nhiều rượu có thể gây giảm mật độ xương, dẫn đến loãng xương và làm tăng nguy cơ gãy xương, nhất là xương hông.
- Hút thuốc lá: Các chất độc hại trong thuốc lá có thể cản trở sự giải phóng một số hormone và điều này góp phần khiến xương trở nên suy yếu. Những hormone bị ảnh hưởng gồm có hormone tuyến cận giáp và hormone điều hòa lượng vitamin D trong cơ thể.
- Tiền sử gia đình bị loãng xương: Những người có tiền sử gia đình bị loãng xương sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
- Dùng một số loại thuốc: Các loại glucocorticoid, chẳng hạn như prednisone và dexamethasone, là một nhóm thuốc ức chế miễn dịch. Nhóm thuốc này được sử dụng cho những người phải phẫu thuật ghép tạng, mắc bệnh tự miễn và một số bệnh lý khác để kiểm soát tình trạng bệnh hoặc ngăn cơ thể đào thải tạng ghép. Tuy nhiên, những loại thuốc này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến xương và gây giảm mật độ xương.
- Mắc một số bệnh lý: Một số bệnh lý đã được phát hiện là có thể làm tăng nguy cơ loãng xương gồm có:
- Viêm khớp dạng thấp
- Cường tuyến cận giáp
- Đái tháo đường
Mặc dù nhiều yếu tố trong số này không thể thay đổi được nhưng điều quan trọng là phải biết bản thân có những yếu tố nguy cơ nào của bệnh loãng xương. Nếu có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào trong số này thì nên cân nhắc khám sàng lọc loãng xương khi bước vào thời kỳ mãn kinh.
Triệu chứng loãng xương sau mãn kinh
Loãng xương thường được gọi là căn bệnh “thầm lặng” vì thường không gây ra triệu chứng cho đến khi bệnh tiến triển nghiêm trọng. Rất nhiều người phải đến khi bị gãy xương mới biết mình bị loãng xương.
Một số triệu chứng của loãng xương và gãy xương gồm có:
- Đau lưng
- Giảm khả năng vận động
- Xương dễ gãy, thường là ở cột sống, cổ tay hoặc hông
- Đau đớn, sưng tấy, biến dạng ở vị trí gãy xương
- Thay đổi tư thế, chẳng hạn như gù lưng
- Giảm chiều cao
Chẩn đoán loãng xương sau mãn kinh
Phương pháp chẩn đoán loãng xương chính xác nhất là đo mật độ xương, có nghĩa là mật độ khoáng chất như canxi có trong xương.
Phương pháp đo mật độ xương được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là DEXA/DXA hay đo hấp thụ tia X năng lượng kép. Kết quả có dạng T-score hoặc Z-score:
- T-score so sánh mật độ xương đo được của người bệnh với mật độ xương của những người trẻ hơn.
- Z-score so sánh mật độ xương đo được của người bệnh với những người cùng độ tuổi.
Việc đo mật độ xương thường được thực hiện ở vùng hông và phần cột sống bên dưới nhưng cũng có thể được thực hiện ở mắt cá chân hoặc cổ tay. Bác sĩ cũng có thể đề nghị thực hiện các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) để đánh giá mức độ loãng xương hoặc kiểm tra xem tình trạng loãng xương có xảy ra ở cột sống hay không.
Nếu người bệnh đang dùng thuốc hoặc thay đổi lối sống để giảm nguy cơ loãng xương sau mãn kinh, bác sĩ có thể sẽ đề nghị tái khám định kỳ để theo dõi. Những người có nguy cơ cao có thể cần đo mật độ xương cách 1 đến 3 năm một lần để đánh giá đáp ứng với điều trị. Những người không thuộc nhóm nguy cơ cao thường chỉ cần sàng lọc 5 năm một lần.
Điều trị loãng xương sau mãn kinh
Có nhiều cách để điều trị loãng xương sau mãn kinh, ví dụ như dùng thuốc để thúc đẩy sự tái tạo xương và tăng độ chắc khỏe của xương, giảm nguy cơ gãy xương. Bác sĩ sẽ kê thuốc dựa trên sức khỏe tổng thể, bệnh sử, mức độ nghiêm trọng của tình trạng loãng xương, nguy cơ gãy xương và các tác dụng phụ của thuốc.
Các loại thuốc chính được dùng để điều trị chứng loãng xương gồm có:
Bisphosphonate
Bisphosphonate giúp làm giảm tốc độ mất xương và nhờ đó làm chậm sự tiến triển của tình trạng loãng xương sau mãn kinh. Đây thường là phương pháp điều trị bước đầu cho những người có nguy cơ cao bị gãy xương do loãng xương. Ví dụ về các loại thuốc trong nhóm này gồm có alendronate, axit zoledronic, risedronate và ibandronate.
Denosumab
Denosumab, hay còn được gọi là Polia, là một loại thuốc được dùng qua đường tiêm truyền tĩnh mạch. Denosumab giúp làm chậm tốc độ phân hủy xương và giảm nguy cơ gãy xương. Đây là một lựa chọn thay thế dành cho những người không thể dùng bisphosphonate.
Abaloparatide
Thuốc này có dạng dung dịch lỏng mà người bệnh tự tiêm hàng ngày. Abaloparatide thường được kê cho những người bị loãng xương có nguy cơ gãy xương rất cao. Thuốc giúp giảm nguy cơ gãy xương cột sống và các xương khác. Tuy nhiên, không được dùng abaloparatide quá 2 năm liên tục.
Romozozumab
Romozozumab có dạng thuốc tiêm, là một loại thuốc ức chế sclerostin và thường được dùng cho những người có nguy cơ gãy xương rất cao.
Liệu pháp estrogen
Liệu pháp estrogen là một loại liệu pháp hormone thay thế giúp tăng nồng độ estrogen trong cơ thể khi buồng trứng bị suy giảm chức năng.
Calcitonin
Calcitonin là một loại hormone có tự nhiên trong cơ thể giúp kiểm soát nồng độ canxi và ngăn ngừa tình trạng mất xương. Những phụ nữ đã mãn kinh ít nhất 5 năm có thể dùng calcitonin dạng thuốc xịt mũi.
Uống bổ sung canxi và vitamin D
Canxi và vitamin D là những chất cần thiết cho sự hình thành xương mới. Nếu không thể bổ sung đủ canxi và vitamin D thông qua các cách tự nhiên như chế độ ăn uống và tiếp xúc với nắng thì sẽ cần phải dùng thực phẩm chức năng. Tăng cường canxi và vitamin D sẽ giúp củng cố xương và giảm nguy cơ gãy xương.
Thay đổi lối sống
Ngoài dùng thuốc, người bệnh nên thực hiện những thay đổi lối sống sau đây để cải thiện sức khỏe xương:
- Tăng lượng canxi và vitamin D trong chế độ ăn: Thực phẩm giàu canxi gồm có các sản phẩm từ sữa, các loại hạt, đậu nành, đậu phụ, rau màu xanh đậm và thực phẩm được bổ sung canxi, chẳng hạn như nước cam ép, phô mai, sữa hạt hay ngũ cốc ăn liền. Vitamin D có trong cá hồi, cá ngừ, cá mòi và lòng đỏ trứng. Một số loại thực phẩm chế biến sẵn như sữa tươi, ngũ cốc cũng được bổ sung thêm vitamin D.
- Tập thể dục thường xuyên, nhất là các bài tập chịu sức nặng (các bài tập như bơi lội không hiệu quả trong việc thúc đẩy hình thành xương). Tập luyện kháng lực, chẳng hạn như tập tạ và các bài tập sử dụng dây kháng lực cũng giúp xương chắc khỏe hơn.
- Duy trì cân nặng khỏe mạnh: Thừa cân sẽ gây áp lực lên xương và khiến xương trở nên suy yếu. Thiếu cân cũng làm tăng nguy cơ loãng xương.
- Tránh những thói quen gây hại cho xương, chẳng hạn như hút thuốc và uống nhiều rượu.
Tóm tắt bài viết
Sự sụt giảm hormone estrogen vào thời kỳ mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương. Sử dụng thuốc và thay đổi lối sống có thể giúp giảm nguy cơ và điều trị loãng xương.
Bên cạnh thuốc đường uống, một giải pháp khác để điều trị loãng xương là truyền thuốc qua đường tĩnh mạch. Thuốc thường được truyền mỗi 3 hoặc 12 tháng một lần. Tác dụng phụ thường nhẹ và đa phần chỉ xảy ra sau lần truyền thuốc đầu tiên.
Loãng xương là một tình trạng mạn tính có đặc trưng là sự giảm khối lượng và mật độ xương, điều này làm tăng nguy cơ gãy xương. Bất cứ ai cũng có thể bị loãng xương và nguy cơ sẽ tăng theo độ tuổi. Theo Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH), những người có tiền sử gia đình bị loãng xương có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Phương pháp điều trị loãng xương thường gồm có dùng thuốc, thay đổi chế độ ăn uống và lối sống cũng như vật lý trị liệu.
Bệnh loãng xương hiện được điều trị bằng thuốc và thay đổi lối sống. Ngoài ra còn các phương pháp điều trị khác hiện đang được nghiên cứu, một trong số đó là liệu pháp tế bào gốc. Mặc dù các nghiên cứu trên động vật cho kết quả đầy hứa hẹn về hiệu quả của tế bào gốc trong điều trị chứng loãng xương nhưng dữ liệu nghiên cứu trên người lại rất hạn chế.
Loãng xương hông thoáng qua hay hội chứng phù tủy xương hông là một dạng loãng xương hiếm gặp. Đây là tình trạng giảm mật độ xương tạm thời ở phần đầu của xương đùi hay chỏm xương đùi (phần xương có hình dạng 2/3 khối cầu nằm trong khớp háng).
Loãng xương là một bệnh về xương phổ biến ở người lớn. Mặc dù bệnh này chủ yếu xảy ra ở người trên 50 tuổi nhưng cũng có thể xảy ra trong khi mang thai. Triệu chứng của loãng xương thường là đau lưng và gãy xương. Mặc dù cực kỳ hiếm gặp nhưng chứng loãng xương có thể gây đau đớn dữ dội và dẫn đến giảm khả năng vận động về lâu dài.