Ứng dụng của botulinum toxin trong thẩm mỹ hàm mặt
Tóm tắt
Botulinum toxin được ứng dụng trong phẫu thuật miệng và hàm mặt bắt đầu từ năm 1982, khi Jan Carruthers bắt đầu sử dụng chất này để giảm khối cơ và làm căng da, và từ đó botulinum toxin đã được sử dụng cho mục đích thẩm mỹ.
Tại Hàn Quốc, chất này đã được sử dụng trong nhiều chuyên ngành khác nhau bao gồm nha khoa (phẫu thuật miệng và hàm mặt cũng như là thuốc uống), phẫu thuật thẩm mỹ, da liễu, nhãn khoa, phẫu thuật nói chung và phẫu thuật chỉnh hình,… Mỗi cách tiếp cận chuyên khoa đến Botox đều có chỉ định y tế riêng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ thảo luận về ứng dụng trong lĩnh vực hàm mặt của botulinum toxin, bao gồm cả lý thuyết và ứng dụng thực tiễn, ví dụ như trong điều trị chứng nghiến răng và hàm bạnh.
Bối cảnh
Hiện nay, chất vốn được sử dụng để làm mờ các nếp nhăn và rãnh nhăn trên khuôn mặt - Botox (botulinum toxin A) đang nhận được rất nhiều sự chú ý trong lĩnh vực nha khoa. Botox là tên thương mại của botulinum toxin, giống như việc gọi acetaminophen là Tylenol. Botulinum toxin có độc tính cao gấp 4 lần so với độc tố uốn ván thông thường và gấp 10 lần so với curare. Kể từ khi được giới thiệu trong lĩnh vực phẫu thuật thẩm mỹ vào những năm 1980, botulinum toxin đã được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau bao gồm nha khoa, da liễu, nhãn khoa, phẫu thuật thẩm mỹ, y học nói chung,… Hiện tại, botox được bán dưới các tên thương hiệu khác nhau như BTXA (công ty dược phẩm Hanall, Trung Quốc), Dysport (Beaufour Ipsen Korea Ltd, Pháp) và Botox (Daewoong Pharma Importer, Allergan, USA). Những dạng thương mại có trên thị trường mà chúng ta thường hay sử dụng là botulinum toxin A. Tại Hoa Kỳ còn có botulinum toxin B với tên thương hiệu là Myoblock.
Tác dụng của botulinum toxin đến từ tác động của chất này đối với điểm giao thần kinh - cơ. Nó gây tê liệt bằng cách ức chế sự giải phóng acetylcholine. Cơ chế hoạt động bao gồm ba giai đoạn: liên kết, nội hóa và gây tê liệt thông qua ức chế giải phóng chất dẫn truyền thần kinh. Hiệu quả điều trị được duy trì trong 3 đến 6 tháng. Trong khoảng thời gian đó, botulinum toxin điều chỉnh hoạt động của các cơ, giảm nếp nhăn trên khuôn mặt hoặc hàm bạnh và giảm đau do tật nghiến răng.
Ứng dụng
Lịch sử của botulinum toxin
Justinus Kerner đã phát hiện ra loại độc tố này từ xúc xích thối và báo cáo vào năm 1829. Năm 1897, Giáo sư Emile Pierre van Ermengen đến từ Bỉ đã phát hiện ra vi khuẩn yếm khí có khả năng hình thành bào tử từ thịt lợn muối và từ một xác chết bị nhiễm botulinum toxin (botulism). Kể từ đó, vi khuẩn này được đặt tên là Clostridium botulinum và protein exotoxin BTX-A. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, người ta đã tinh chế botulinum để sử dụng làm vũ khí và các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu sử dụng BTX-A tinh chế để tìm ra cơ chế hoạt động của nó và tác động của nó đối với cơ chế co thắt cơ. Năm 1973, Alan B. Scott là người đầu tiên sử dụng BTX-A để điều trị bệnh lác. Kể từ năm 1979, khi FDA (Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) chính thức phê duyệt BTX- A để điều trị bệnh lác; chất này đã được sử dụng rộng rãi cho nhiều mục đích điều trị khác nhau. Sau đó, các nghiên cứu lâm sàng đã được thực hiện trên các trường hợp co thắt mí mắt (blepharospasm) hoặc co thắt cơ nửa mặt (hemifacial spasm), và vào năm 1989, FDA cuối cùng cũng đã cho phép ứng dụng BTX- A vào điều trị các bệnh này.
Việc ứng dụng botulinum trong phẫu thuật miệng và hàm mặt bắt đầu từ năm 1982, khi mà Jan Carruthers bắt đầu sử dụng để giảm khối cơ và làm căng da, từ đó chất này đã được sử dụng cho mục đích thẩm mỹ. Đó là vào năm 1990, Botox lần đầu tiên được dùng cho vùng đầu và cổ, cụ thể là cho một bệnh nhân bị chấn thương sọ não. Smyth đã quan sát thấy Botox có tác động đáng kể ở những người hàm bạnh (do phì đại cơ cắn hai bên). Theo công bố của Freund trên tạp chí vào năm 2002, ông đã quan sát thấy hiệu quả tốt khi sử dụng Botox cho những bệnh nhân bị rối loạn khớp thái dương hàm. Vào ngày 8 tháng 12 năm 2001, tiến sĩ Kerusus đã thuyết trình về quy trình xóa nếp nhăn của Botox tại Hàn Quốc và vào năm 2002, FDA đã chính thức phê chuẩn việc sử dụng Botox cho mục đích thẩm mỹ. Ở Hàn Quốc, chất này đã được sử dụng trong nhiều chuyên ngành khác nhau bao gồm nha khoa (phẫu thuật miệng và hàm mặt, thuốc uống), phẫu thuật thẩm mỹ, da liễu, nhãn khoa, phẫu thuật nói chung và phẫu thuật chỉnh hình,... Mỗi ứng dụng chuyên khoa của Botox đều có chỉ định y tế riêng.
So sánh các sản phẩm nhóm botulinum toxin loại A
Mỗi lọ Botox có 100 đơn vị toxin A và mỗi lọ Dysport có 500 đơn vị toxin A. Trong bài viết này, các đơn vị của Botox và BTX A sẽ được biểu thị dưới dạng đơn vị botox (BU) và đơn vị của Dysport được biểu thị là DU. 1 BU có tác dụng tương đương với 3 - 4 DU. Liều dùng cho mục đích thẩm mỹ là 0.5 - 1 BU/kg, và liều dùng cho các trường hợp co thắt cơ là 15 - 18 BU/kg. LD50 (liều lượng gây chết 50%) ở một người nặng 70kg là 2800 BU, do đó mức liều lượng nói trên là rấti an toàn. Nói cách khác, cần phải tiêm 28 lọ cùng một lúc mới có thể gây chết người vì một lọ Botox chứa 100 BU.
Bảng so sánh Botox và Dysport
|
Botox |
Dysport |
Các thành phần |
Clostridium botulinum toxin |
Clostridium botulinum toxin |
Lọ |
100 U toxin A |
500 U toxin A |
Hiệu quả |
1 đơn vị Botox |
3 - 4 đơn vị Dysport |
Thời gian bán hủy |
Dạng khô: 24 tháng Dung dịch: 5 tiếng |
Dạng khô: 12 tháng Dung dịch: 8 tiếng |
Nhà sản xuất |
Allergan, Irvine, CA, Hoa Kỳ |
Ipsen, Ltd, Wrexham, UK |
Pha loãng |
100 đơn vị + 2.5ml NaCl Dung dịch sinh lý: : 2U trong 0.05ml : 4U trong 0.1ml |
500 đơn vị + 2,5ml NaCl Dung dịch sinh lý: : 10U trong 0.05ml : 20U trong 0.1ml |
Phương pháp pha loãng botulinum toxin
Phương pháp pha loãng botulinum toxin thay đổi tùy theo từng bác sĩ. Nói chung, trong điều trị hàm bạnh thì chúng tôi sử dụng BTXA, Botox và Dysport.
Đối với Botox, pha loãng với 2.0 cc nước muối hoặc nước cất. Tỉ lệ là 5 BU cho mỗi 0.1 cc, vì vậy nên rất dễ đo.
Đối với Dysport thì pha loãng với 2.5 cc nước muối hoặc nước cất, tỉ lệ là 20 DU với 0.1 cc, và do đó có thể dễ dàng điều chỉnh lượng được tiêm vào cơ cắn.
Sử dụng ống tiêm 5cc, hút hơn 3cc không khí và bơm vào lọ botulinum toxin. Kiểm tra xem không khí có được hút vào lọ hay không. Nếu không khí không được hút vào lọ thì chứng tỏ lọ đó không được hút chân không và cần bỏ đi. Để đạt được nồng độ dung dịch pha loãng mong muốn, hãy chuẩn bị sẵn các phần dung dịch nước muối sinh lý cho từng lọ. Chúng tôi thường chuẩn bị 2.5 cc. Tiêm 2.5 cc nước muối bình thường vào botulinum toxin và sau đó 'nhẹ nhàng' trộn đều (không lắc vì khi lắc, liên kết disulfide bao gồm cả chuỗi nặng và chuỗi nhẹ bị phá vỡ và làm giảm hiệu quả của sản phẩm). Bằng cách này, bạn có thể pha loãng botulinum toxin rồi sẵn sàng tiêm bằng ống tiêm 1 cc.
Phạm vi ứng dụng của botulinum trong lĩnh vực hàm mặt
Các nếp nhăn ở giữa hai chân mày, vết chân chim ở đuôi mắt, nếp nhăn xuất hiện quanh mắt khi cười, nếp nhăn ngang trên trán và hàm bạnh là chỉ định phổ biến nhất của phương pháp tiêm botulinum toxin. Ngoài ra, chất này còn có những ứng dụng khác như điều trị chứng nghiến răng, làm mềm da và điều trị sẹo, bao gồm cả sẹo lồi, điều trị đau đầu ở những bệnh nhân bị rối loạn khớp thái dương hàm và cũng được sử dụng để giảm lực cắn tối đa trong thời gian đầu gắn implant răng tức thì (immediate implant). Tại Hàn Quốc, nghiên cứu về ứng dụng của botulinum toxin trong đau dây thần kinh số V hay dây thần kinh sinh ba (trigeminal neuralgia) và giảm đau do viêm miệng đang được tiến hành.
Xác định liều tùy theo vùng điều trị
Tổng liều tiêm vào từng khu vực có thể khác nhau tùy thuộc vào kinh nghiệm của bác sĩ. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đề xuất liều cho từng khu vực điều trị dựa trên kinh nghiệm lâm sàng.
Đối với các nếp nhăn ở giữa hai đầu lông mày và nếp nhăn quanh mắt thì tiêm 2 - 4 BU (8 - 10 DU) cho mỗi điểm tiêm.
Đối với vùng trán, tiêm 4 - 5 điểm, 2 điểm cho vùng giữa hai đầu lông mày và 3 điểm cho các nếp nhăn xung quanh mắt.
Cuối cùng, tổng lượng sản phẩm cần tiêm cho mỗi lần điều trị sẽ là 10 - 35 BU cho các nếp nhăn giữa hai đầu lông mày, 12 - 20 BU cho trán và 12 - 24 BU cho nếp nhăn quanh mắt.
Đối với vấn đề hàm bạnh, mỗi điểm tiêm 8 - 10 BU vào cơ cắn và cần tiêm 3 đến 4 điểm. Botulinum toxin có thể dễ dàng lan rộng bằng cách xâm nhập vào các mô và lớp mô liên kết sẽ làm giảm sự khuếch tán của sản phẩm. Khi tiêm 10 BU Botox hoặc BTXA, hiệu ứng giãn cơ sẽ diễn ra trong một vùng hình tròn với đường kính 3 cm từ điểm tiêm (Hình 3 và 4).
Vì botulinum toxin sẽ lan đều ra 2.5 – 3 cm từ các điểm tiêm nên cần tiêm cách xa những khu vực có dây thần kinh quan trọng. Trong trường hợp cần điều trị các nếp nhăn trán, cần tiêm cách lông mày ít nhất 1.5 cm để tránh bị sụp hoặc sưng phù mí mắt (Hình 5).
Trong trường hợp điều trị hàm bạnh, nên tiêm ở khoảng cách 1.5 cm trở lên tính từ bờ dưới của hàm dưới và tránh tiêm vào dây thần kinh trên mặt (Hình 6 và 7). Liều tiêm vào một cơ cắn thường là 30 BU còn đối với Dysport thì là 100 DU mỗi bên, và liều tối đa được khuyến cáo cho một người là 200 DU. Số mũi tiêm cho mỗi bên hàm dưới là 3 đến 4 mũi và mỗi mũi tiêm 10 BU (tương đương với 0.2 cc khi pha loãng trong 2.0 cc dung dịch nước muối). Cần thận trọng khi sử dụng Dysport, vì nồng độ là 20 DU/0.1 cc khi pha loãng trong 2.5cc dung dịch nước muối.
Vì các biến chứng thường xảy ra do sự khuếch tán độc tố, liều lượng, hướng tiêm và chảy máu khi tiêm nên cần cân nhắc những điều này trong khi tiêm. Bằng cách thực hiện đúng kỹ thuật và chuẩn xác thì có thể giảm thiểu sự hiện tượng sụp mí, xệ môi và tê liệt cơ mặt do sự khuếch tán đến các khu vực có dây thần kinh chính. Các biến chứng cục bộ có thể xảy ra gồm có đau, phù nề, ban đỏ, tụ máu ở vị trí tiêm, đau đầu, tăng sản ngắn hạn, dị cảm,… [5] Tuy nhiên, cũng không cần quá lo lắng vì hoàn toàn có thể ngăn ngừa tất cả các biến chứng này bằng cách tiêm chính xác, từ từ, chườm túi nước đá lên vùng tiêm và mát-xa nhẹ (tránh cọ xát mạnh). Tránh dùng aspirin hoặc thuốc chống viêm không steroid có chứa aspirin (NSAID) trong 4 - 7 ngày trước khi tiêm để giảm thiểu nguy cơ bầm tím. Hơn nữa, các loại kháng sinh nhóm aminoglycoside hoặc thuốc ức chế thần kinh cơ có thể tăng cường tác dụng của botulinum toxin.
Khi hiệu quả của botulinum toxin được đánh giá dựa trên lực nhai và mức độ co thắt của cơ nhai, mức giảm trung bình 20% trong 6 tháng được duy trì và sự co thắt của cơ nhai được duy trì ở mức khoảng 30% trong 6 tháng (Hình 8). Chúng tôi sẽ chuẩn bị một tiêu chuẩn để kiểm tra và đánh giá sự co thắt của cơ nhai thông qua hình ảnh siêu âm để có thể dễ dàng thực hiện trong phòng khám. Chúng tôi hiện đang làm nghiên cứu về việc sử dụng các hình ảnh siêu âm để xác định mức độ phì đại cơ cắn và độ dày của cơ cắn ở nam giới và phụ nữ trưởng thành (Hình 9).
Sau nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng rằng có thể thiết lập được một tiêu chuẩn cho vấn đề hàm bạnh, tìm ra liều lượng, phương pháp đánh giá và thời gian tiến hành lần tiêm thứ hai.
Chống chỉ định tiêm botulinum toxin
Các chống chỉ định chính gồm có mang thai, cho con bú và rối loạn hệ thống cơ xương. Mặc dù nghiên cứu lâm sàng về tác động của botulinum toxin lên thai nhi hiện vẫn chưa rõ nhưng Scott và các cộng sự đã đưa ra báo cáo không chính thức về 9 phụ nữ tiêm Botox trong thời gian mang thai, trong số 8 người sinh ra con khỏe mạnh và chỉ có một người bị sinh non. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến sinh non không phải do tiêm Botox và theo báo cáo mới nhất về tiêm Botox ở phụ nữ mang thai, những người tham gia đều sinh con bình thường. Mặc dù vậy nhưng tiêm Botox cho phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú vẫn là điều không được khuyến nghị. Ngoài ra, nhiều tạp chí y khoa cũng khuyến cáo không tiêm botulinum toxin cho trẻ em dưới 12 tuổi. Tính an toàn và hiệu quả của Botox ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ em hiện vẫn chưa được làm rõ và yếu cơ là một chống chỉ định tuyệt đối vì ở những người bị vấn đề này, chức năng của điểm giao thần kinh – cơ đã bị tổn hại và việc tiêm Botox sẽ làm trầm trọng thêm các triệu chứng. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất khó phát hiện khi đến khám nha sĩ tổng quát.
Trên đây, chúng tôi đã nói ngắn gọn về các chỉ định, hướng dẫn sử dụng và chống chỉ định khác nhau của botulinum toxin. Chúng tôi sẽ thảo luận về ứng dụng trong nha khoa của botulinum toxin trong chương tiếp theo, bao gồm cả khía cạnh lý thuyết và thực tiễn ví dụ như bệnh nghiến răng và hàm bạnh.
Điều trị chứng nghiến răng bằng botulinum toxin
Nhiều tác giả cho rằng ngoài những tác dụng phổ biến và độc nhất là làm tê liệt mềm và thư giãn cơ thì botulinum toxin còn có các tác dụng khác cũng có thể được phát triển và ứng dụng trong lĩnh vực nha khoa. Nếu botulinum toxin có thể được sử dụng kết hợp với phẫu thuật chỉnh hình hoặc phẫu thuật thẩm mỹ thì hiệu quả của ca phẫu thuật sẽ tăng lên rất nhiều.
Cơ chế điều trị của botulinum toxin có thể được phân thành ba:
- Điều trị dựa trên cơ chế làm thư giãn, tê liệt cơ. Thường được ứng dụng để trị nếp nhăn ở mắt và trên trán.
- Điều trị dựa trên cơ chế giảm khối cơ. Thường được ứng dụng để điều trị cơ nhai hoặc cơ bắp chân.
- Điều trị bằng cơ chế dược lý làm giảm các điểm kích hoạt trong sợi cơ và giảm các chất gây đau như chất P và serotonin được giải phóng trong các tế bào cơ bằng cách gây tê liệt và thư giãn cơ.
Từ các cơ chế được liệt kê ở trên, cơ chế thứ ba là cơ chế hiện đang được chú ý. Cơ chế này có thể được sử dụng rất rộng rãi trong lĩnh vực y tế, cũng như là trong lĩnh vực nha khoa. Cơ chế này của botulinum toxin có thể được ứng dụng trong các phương pháp điều trị khác nhau, bao gồm điều trị chứng nghiến răng, nhức đầu do rối loạn khớp thái dương hàm và sự sai lệch do thói quen của khớp thái dương hàm. Đầu tiên và quan trọng nhất, chúng tôi muốn thảo luận về ứng dụng điều trị chứng nghiến răng hiện đang được giới nha khoa rất quan tâm.
Định nghĩa và nguyên nhân của chứng nghiến răng
Nghiến răng là một thói quen loạn năng xảy ra vào ban ngày hoặc ban đêm. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tật nghiến răng, ví dụ như yếu tố tâm lý, căng thẳng cảm xúc và sai lệch khớp cắn. Cũng có giả thuyết cho rằng tật nghiến răng là một dạng rối loạn giấc ngủ có nguồn gốc từ hệ thống thần kinh trung ương chứ không phải là do các yếu tố ngoại biên đơn thuần như sai lệch khớp cắn. Ngoài ra, chứng nghiến răng sau chấn thương có thể xảy ra khi chu kỳ thức - ngủ phục hồi lại ở những bệnh nhân đang trong tình trạng hôn mê do tổn thương não. Tật nghiến răng ảnh hưởng đến 5 - 96% dân số nói chung. Đó không chỉ đơn giản là một rối loạn giấc ngủ mà còn có nhiều yếu tố khác góp phần gây ra vấn đề này, do đó các chuyên gia đang tìm kiếm một giải pháp thực sự thông qua các biện pháp điều trị triệu chứng.
Các triệu chứng và vấn đề trong khoang miệng ở người nghiến răng
Hoạt động co thắt kéo dài của các cơ nhai dẫn đến thiếu máu cục bộ trong các tế bào cơ, và tình trạng thiếu máu cục bộ này thúc đẩy giải phóng serotonin từ các mô xung quanh, và chất trung gian gây đau này truyền cảm giác đau từ vỏ não đến đầu mút dây thần kinh rồi lại phản hồi về vỏ não, dẫn đến co cơ và vòng lặp này gây ra các vấn đề như co thắt cơ và viêm cơ, đồng thời gây ra hàng loạt triệu chứng như đau nửa đầu, cứng cột sống cổ và tình trạng tăng nhạy cảm ở răng. Ngoài ra, vấn đề này còn là nguyên nhân gây đau khớp thái dương hàm kéo dài.
Botulinum toxin có tác dụng phá vỡ vòng luẩn quẩn do sự co thắt cơ kéo dài này. Botulinum toxin ngăn chặn hiện tượng phản hồi bằng cách gây tê liệt mềm, giảm sự co cơ, thư giãn các cơ và cung cấp máu cho các tế bào mô cơ.
Cơ chế điều trị nghiến răng của botulinum toxin
Botulinum toxin là một chất có khả năng làm tê liệt các cơ thông qua việc gây ức chế sự giải phóng acetylcholine ở đầu dây thần kinh bằng cách tác động lên điểm giao thần kinh - cơ. Nhờ đó mà chất này có thể làm giảm sự co cơ và giảm áp lực cắn lên tới 20 - 30% ở cơ nhai. Botulinum toxin dự kiến sẽ đóng vai trò quan trọng nếu tác dụng dược lý chung của chất này được ứng dụng đúng cách trong nha khoa. Đặc biệt, việc sử dụng botulinum toxin đang ngày càng trở nên phổ biến vì nhiều trường hợp nghiến răng do sai lệch khớp cắn đã được điều trị thành công và sự cải thiện về tật nghiến răng đã được quan sát thấy trong các trường hợp mà nguyên nhân không phải do sự co thắt cơ nhai.
Kể từ khi Van Zandijcke và các cộng sự (1990) lần đầu tiên báo cáo hiệu quả điều trị của Botox trong điều trị tật nghiến răng, phương pháp này đã được ứng dụng rất phổ biến. Thường chỉ cần tiêm vào cơ cắn là đủ để điều trị chứng nghiến răng mà không cần tiêm vào các cơ nhai khác như cơ thái dương, cơ chân bướm trong và cơ chân bướm ngoài, cơ hai thân và cơ cằm - móng. Trên thực tế, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đây là cách để ngăn ngừa rối loạn chức năng nuốt hoặc rối loạn chức năng nhai nghiêm trọng. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực phẫu thuật nha khoa, vì cơ thái dương đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tật nghiến răng nên tốt nhất vẫn cần tiêm botulinum toxin vào cả cơ cắn và cơ thái dương nếu có thể.
Phương pháp điều trị thông thường của tật nghiến răng
1. Kiểm soát căng thẳng
Giúp bệnh nhân hiểu được mối liên hệ giữa tật nghiến răng và tình trạng căng thẳng/stress để họ có thể tự cải thiện bằng liệu pháp phản hồi và các phương pháp thư giãn. Ngoài ra, yêu cầu bệnh nhân cố gắng giảm căng thẳng bằng cách điều chỉnh lối sống.
2. Điều chỉnh khớp cắn
Hầu hết những người có tật nghiến răng đều có răng giả hoặc các vật liệu tổng hợp trên răng do răng đã bị vỡ hoặc nứt và thường bề mặt nhai của răng cũng như là rãnh chữ V trên cổ răng đã bị bào mòn do áp lực. Trong hầu hết các trường hợp, chúng tôi có thể quan sát thấy rằng những bệnh nhân bị sai lệch hướng dẫn răng nanh thường chuyển thành hướng dẫn nhóm. Ở những bệnh nhân này, quá trình chuyển đổi từ hướng dẫn nhóm sang hướng dẫn răng nanh có thể được thực hiện bằng cách loại bỏ kiểu khớp cắn loạn năng và loại bỏ sự cản trở trong quá trình đưa hàm sang bên hoặc về phía trước.
3. Sử dụng máng nhai
Có thể điều trị tật nghiến răng bằng cách cải thiện sự tương tác giữa hai hàm, tăng kích thước khớp cắn dọc và bằng cách mở rộng các trục cơ.
4. Điều trị bằng thuốc
Tác dụng của thuốc giãn cơ thường chỉ ở mức tối thiểu và đã từng có một báo cáo về việc sử dụng thuốc chống trầm cảm để điều trị nghiến răng vì nghiến răng được cho là một dạng rối loạn giấc ngủ. Liệu pháp kết hợp thường cho hiệu quả cao hơn.
Điều trị nghiến răng bằng botulinum toxin
Chúng tôi đã từng điều trị cho một trường hợp nghiến răng bằng cách tiêm botulinum toxin vào một hoặc cả hai cơ cắn và cơ thái dương thì nhận thấy triệu chứng có sự cải thiện đáng kể. Trong trường hợp bệnh nhân không đáp ứng với phương pháp điều chỉnh khớp cắn và dùng máng nhai, botulinum toxin giúp giảm đáng kể hiện tượng nghiến răng. Các tài liệu nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu của Ivanhoe và các cộng sự đã báo cáo rằng botulinum toxin đã được chứng minh là có thể tạm thời ngăn chặn các triệu chứng nghiêm trọng của tật nghiến răng trong khoảng thời gian 3 tháng ở một bệnh nhân bị tổn thương não do ngừng tim.
Theo To và cộng sự, khối cơ cắn đã giảm 31% trên ảnh siêu âm và điện cơ đồ 3 tháng sau khi tiêm. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng trong số 9 cơ cắn được tiêm trong thử nghiệm thì có 6 cơ duy trì trạng thái teo trong suốt 1 năm. Do đó, chúng ta có thể giả định rằng lực cắn giảm do teo cơ cắn giúp ngăn ngừa tật nghiến răng bằng cách tạm thời gây ra sự thay đổi môi trường trong khớp cắn. Nói chung, kết quả thử nghiệm cho thấy lực cắn giảm đi tới 20 - 40.
Dựa trên kinh nghiệm của tác giả: Liều tiêm cho cơ cắn và cơ thái dương trong điều trị chứng nghiến răng:
- Cơ cắn: 25 - 30 BU (BTXA, đơn vị Botox) cho mỗi bên
- Cơ thái dương: 15 - 20 BU (BTXA) cho mỗi bên
Điều trị nghiến răng - ca bệnh thực tế
Trong trường hợp sắp nêu ra dưới đây, biện pháp điều trị bước đầu là điều chỉnh khớp cắn và dùng máng nhai, sau đó kê cho bệnh nhân thuốc chống trầm cảm và trong quá trình theo dõi sự cải thiện, chúng tôi tiến hành tiêm botulinum toxin (BTXA, Dysport). Trong hình 12, bệnh nhân có tật nghiến răng, đau nửa đầu kinh niên và phì đại cơ cắn hai bên (benign masseteric hypertrophy - BMH). Khi chúng tôi tiêm 30 đơn vị BTXA vào cơ cắn ở bên trái và bên phải để điều trị tật nghiến răng và BMH, triệu chứng BMH được cải thiện đáng kể và chứng nghiến răng cũng được giải quyết sau một tháng. Chúng tôi đã quan sát thấy các cơn đau cũng giảm hẳn vì khu vực có điểm kích hoạt cơn đau đã biến mất do không còn co thắt cơ và dẫn đến khắc phục được tình trạng thiếu máu cục bộ. Sau 6 tháng từ lần tiêm đầu tiên, bệnh nhân được tiêm lần hai với liều tương đương với lần đầu, các triệu chứng của tật nghiến răng tiếp tục cải thiện.
Phương pháp này có rất ít tác dụng phụ. Bệnh nhân có thể gặp hiện tượng khó cắn khi ăn uống nhưng chỉ thoáng qua và sẽ tự hết sau một tuần. Hiệu quả lên cơ cắn bắt đầu xuất hiện sau 3 tuần nên cần nói rõ về điều này cho bệnh nhân trước khi tiêm. Trong trường hợp nêu trên, bệnh nhân phàn nàn rằng đã hơn một tuần mà vẫn không thấy tác dụng. Nhưng sau 3 tuần, vấn đề hàm bạnh và tật nghiến răng đều có sự cải thiện rõ rệt và bệnh nhân rất hài lòng.
Cảnh báo tiêm botulinum toxin để điều trị nghiến răng
Cơ cắn nằm gần các dây thần kinh mặt và việc tiêm botulinum toxin vào khu vực này có khả năng làm suy yếu dây thần kinh thứ bảy - dây thần kinh chịu trách nhiệm chỉ đạo sự cử động của cơ mặt. Do đó, để có kết quả như mong muốn với tác dụng phụ tối thiểu thì điều quan trọng là tiêm chính xác vào trung tâm của vùng hình tam giác đã nhắc đến ở trên. Thông thường, tiêm botulinum toxin vào cơ bắp có thể làm giảm khối cơ khoảng 30% và đủ để điều trị chứng phì đại cơ.
Mặc dù vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc có tiêm vào cơ thái dương hay không nhưng qua theo dõi các trường hợp thực tế gần đây, chúng tôi nhận thấy rằng nếu tiêm vào cơ cắn cùng với cơ thái dương thì sẽ làm giảm hoạt động của cơ và dẫn đến làm tê liệt mềm các cơ. Cả cơ cắn và cơ thái dương đều là những cơ đóng vai trò quan trọng nên có thể nâng cao hiệu quả bằng cách tiêm vào cả hai cơ cùng một lúc. Điều quan trọng là không được tiêm vào mạch máu và tránh tiêm vào đuôi mắt vì có khả năng gây tê liệt sự di chuyển mắt và cử động mí mắt.
Điều trị quai hàm bạnh bằng botulinum toxin
Phương pháp tiêm botulinum toxin đang trở nên ngày càng phổ biến và quy trình tiêm cũng đang được phát triển theo nhiều cách khác nhau, và hiện nay, phương pháp này được ứng dụng rộng rãi để điều trị vấn đề hàm bạnh hay hàm vuông. Đây là vấn đề được rất nhiều người quan tâm, đặc biệt là phụ nữ ở các nước Châu Á. Ở phụ nữ, quai hàm bạnh, vuông là một đặc điểm khiến cho khuôn mặt trông thô, nam tính và kém thanh thoát. Hơn nữa, hàm bạnh thường nổi bật hơn ở người châu Á do có sống mũi thấp hơn và mắt nhỏ hơn khi so sánh với người phương Tây.
So với tiêm điều trị nếp nhăn thì thu gọn hàm bạnh bằng botulinum toxin là một thủ thuật đơn giản hơn, cả về kỹ thuật thực hiện và những quy tắc. Tuy nhiên, không thể làm gọn hoàn toàn hàm bạnh chỉ bằng cách tiêm botulinum toxin được mà vẫn sẽ cần phẫu thuật gọt hàm hay cắt góc hàm, tiêm botulinum toxin chỉ là một phương pháp hỗ trợ.
Trong các trường hợp quai hàm bạnh, vuông mà chúng tôi đã thực hiện, kế hoạch chỉnh sửa thường gồm ba phương pháp: chỉ tiêm botulinum toxin, kết hợp tiêm botulinum toxin và phẫu thuật cắt góc hàm hoặc chỉ phẫu thuật. Chúng tôi sẽ lập kế hoạch chỉnh sửa dựa trên ảnh siêu âm, X-quang sọ thẳng và X-quang toàn cảnh. Trong tổng số các trường hợp thì có đến 60% cần kết hợp cả tiêm botulinum toxin và phẫu thuật cắt góc hàm.
Định nghĩa hàm bạnh và nền tảng của việc điều trị
Nguyên nhân khiến hàm dưới bạnh và vuông thường là do phì đại cơ cắn (benign masseteric hypertrophy). Ở những người có dạng hàm này, góc hàm dưới bạnh sang hai bên (khi nhìn từ đằng trước) và nhô về phía sau (khi nhìn từ bên cạnh), khiến cho khuôn mặt có hình vuông. Hàm bạnh được chia thành hai dạng: một là do phì đại cơ cắn lành tính hay phì đại cơ cắn và hai là do kích thước, hình dạng của cấu trúc xương hàm, bao gồm cả góc hàm dưới. Ngoài ra cũng có những người bị cả hai vấn đề này. Trong các tài liệu phương Tây thì phì đại cơ cắn là nguyên nhân chủ yếu gây hàm bạnh còn theo tài liệu thẩm mỹ châu Á thì xương hàm lớn mới là lý do chính của vấn đề hàm bạnh. Tuy nhiên, thực tế thì cả hai đều có thể gây vấn đề hàm bạnh và nếu không giải quyết cả hai thì rất khó để tạo được đường nét thanh thoát cho khuôn mặt khi nhìn từ cả hai chiều.
Hàm bạnh có thể được chỉnh sửa bằng cách can thiệp phẫu thuật cho những trường hợp mà nguyên nhân là do cả xương và cơ. Phương pháp tiêm botulinum toxin thường chỉ được khuyến nghị cho những người mà hạm bạnh đơn thuần là do phì đại cơ cắn hoặc những trường hợp đã phẫu thuật gọt hàm thành công.
Năm 1880, Tiến sĩ Legg là người đầu tiên phát hiện vấn đề phì đại cơ cắn ở một bé gái 10 tuổi không hề có tiền sử gia đình đặc biệt hay thói quen ăn uống bất thường, và kể từ đó nhiều trường hợp tương tự đã được phát hiện liên tục. Bác sĩ Gunery đã tiến hành một phẫu thuật qua đường rạch bên trong miệng đầu tiên vào năm 1947 để khắc phục vấn đề này và hiệu quả đã được nhiều nhà nghiên cứu khác công nhận. Sau đó, vào năm 1994, kể từ khi Smyth và Moore cùng các cộng sự đồng thời tuyên bố tính hiệu quả của phương pháp tiêm Botox để điều trị phì đại cơ cắn thì phương pháp này đã được ứng dụng rất phổ biến tại Hàn Quốc.
Năm 1990, Schnider và cộng sự đã báo cáo rằng sau khi tiêm botulinum toxin vào cơ cắn (cơ đích) thì họ có thể quan sát thấy sự teo cơ đáng kể diễn ra trong 3 đến 8 tuần và hiệu quả vẫn tiếp tục duy trì trong 25 tháng mà không thấy tác dụng phụ. Từ năm 2001, tiêm Botox được ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau ở Hàn Quốc như phẫu thuật hàm mặt, da liễu, phẫu thuật thẩm mỹ và chỉnh hình, và còn nhiều lĩnh vực khác đang được nghiên cứu. [11, 20]
Giải phẫu lâm sàng của cơ cắn và vùng tam giác
Về mặt giải phẫu, cơ cắn là một cơ nhai có hình chữ nhật, dày và khỏe. Phần nông của cơ này bắt đầu từ mỏm gò má và 2/3 phía trước của phần dưới cung gò má, mở rộng xuống phía sau, kết thúc ở góc hàm dưới và 1/2 bên dưới của bề mặt ngoài cành cao xương hàm dưới. Mặt khác, phần sâu của cơ cắn bắt đầu từ bề mặt trong của cung gò má, kết thúc ở 1/2 bên trên của cành cao xương hàm dưới và bề mặt ngoài của xương mỏm quạ.
Cơ cắn được chỉ đạo bởi nhánh hàm dưới của dây thần kinh sinh ba và được cung cấp máu bởi nhánh cơ cắn của động mạch hàm dưới. Mạc cơ cắn bám chặt với cơ cắn và bao phủ lên cơ này. Nó cũng bám vào đáy của cung gò má và tuyến mang tai.
Phương pháp điều trị dựa trên dạng hàm bạnh
Quá trình chỉnh sửa được thực hiện dựa trên dạng hàm bạnh. Như đã nói ở trên, các dạng hàm bạnh được phân loại dựa trên nguyên nhân, do vấn đề về cơ, cấu trúc xương hay cả hai. Việc xác định dạng hàm bạnh hay nguyên nhân được thực hiện dựa trên ảnh X-quang toàn cảnh, X-quang sọ thẳng và siêu âm cơ (hình 13).
Loại I là hàm bạnh do phì đại cơ cắn và cấu trúc xương bình thường, góc hàm dưới nhô sang bên khi nhìn từ phía trước nhưng bình thường khi nhìn nghiêng (Hình. 14). Trong trường hợp này, chỉ cần tiêm botulinum toxin A mà không cần phải can thiệp phẫu thuật là đủ để có hiệu quả chỉnh sửa rất cao. Hình ảnh siêu âm cho thấy cơ cắn phì đại hơn 10mm trong khi ảnh X-quang toàn cảnh và sọ nghiêng không cho thấy độ nhô ra ngoài của góc hàm dưới. Điều này cũng được quan sát thấy trong những trường hợp mà góc hàm dưới nhô về phía sau. Phương pháp tiêm botulinum toxin phù hợp cho những trường hợp như vậy. Tuy nhiên, phương pháp tiêm botulinum toxin rất khó thay đổi quai hàm khi nhìn nghiêng nên có thể cân nhắc can thiệp phẫu thuật bổ sung.
Loại II là hàm bạnh do sự nhô ra của góc hàm dưới trong khi cơ cắn vẫn bình thường (hình 15). Những trường hợp này sẽ cần phẫu thuật cắt góc hàm và sau đó có thể tiêm botulinum toxin để cải thiện nốt. Sau phẫu thuật, khuôn mặt sẽ bị sưng phù, khiến bệnh nhân cảm thấy không khác gì so với lúc trước. Trong những trường hợp này thì có thể tiêm botulinum toxin A.
Loại III là hàm bạnh do cả phì đại cơ cắn và cấu trúc xương hàm dưới (quan sát thấy cả khi nhìn từ phía trước và nhìn nghiêng) (hình 16). Vấn đề này thường cần chỉnh sửa bằng cách phẫu thuật và tiêm botulinum toxin. Nếu chỉ tiêm botulinum toxin để làm gọn cơ thì khuôn mặt sẽ vẫn bị thô.
Theo Baek và cộng sự, khuôn mặt vuông được chia thành ba loại là vuông khi nhìn từ đằng trước, vuông khi nhìn nghiêng và vuông khi nhìn từ cả hai phía với tỉ lệ tương ứng là 41%, 16% và 44%. Ở các trường hợp mà mặt vuông và thô cả khi nhìn trực diện cũng như là nhìn nghiêng thì giải pháp cần thiết là can thiệp phẫu thuật và tiêm botulinum toxin A.
Kết luận
Tật nghiến răng và hàm bạnh là hai trong số các ứng dụng phổ biến nhất của phương pháp tiêm botulinum toxin. Để chỉnh sửa hàm bạnh, tiêm 3 đến 4 điểm vào cơ cắn và và mỗi điểm8 - 10 BU. Đối với tật nghiến răng, một liều cho cơ cắn là 25 - 30 BU và cơ thái dương là 15 - 20 BU cho mỗi bên. Botulinum toxin có tác dụng làm giảm hoạt động của cơ, từ đó làm mờ nếp nhăn, khắc phục hàm bạnh và ngăn chặn tác hại do thói quen nghiến răng.
Bài viết nghiên cứu có thể bạn quan tâm
Tin liên quan
Hỏi đáp có thể bạn quan tâm