Ghép thận được thực hiện khi nào? Có những rủi ro gì?
Ghép thận là gì?
Ghép thận là một giải pháp điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối. Thận có chức năng lọc chất thải từ máu và loại bỏ chất thải khỏi cơ thể qua nước tiểu. Cơ quan này còn giúp duy trì sự cân bằng chất lỏng và chất điện giải trong cơ thể. Khi thận ngừng hoạt động, chất thải sẽ tích tụ trong cơ thể và dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Những người bị suy thận mạn giai đoạn cuối thường phải điều trị bằng phương pháp lọc máu. Phương pháp điều trị này loại bỏ chất thải tích tụ trong máu khi thận không còn hoạt động tốt hoặc ngừng hoạt động.
Một giải pháp nữa để điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối là ghép thận. Trong ca phẫu thuật ghép thận, một hoặc cả hai quả thận của người bệnh được thay thế bằng thận của người hiến tặng (còn sống hoặc chết não).
Cả phương pháp lọc máu và ghép thận đều có những ưu và nhược điểm.
Lọc máu mất thời gian và tốn nhiều công sức. Người bệnh sẽ phải đến bệnh viện lọc máu vài lần mỗi tuần.
Sau khi ghép thận, người bệnh sẽ không còn phải phụ thuộc vào lọc máu nữa và nhờ đó sẽ có thể sống thoải mái hơn. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể ghép thận. Một số trường hợp không thể phẫu thuật ghép thận gồm có người đang bị nhiễm trùng và người thừa cân nghiêm trọng.
Trong quá trình phẫu thuật ghép thận, bác sĩ ghép quả thận của người hiến tặng vào cơ thể của người bệnh. Mặc dù đa số mọi người sinh ra có hai quả thận nhưng chúng ta vẫn có thể sống khỏe mạnh khi chỉ còn một quả thận. Sau khi ghép thận, người bệnh sẽ phải dùng thuốc ức chế miễn dịch để ngăn hệ miễn dịch tấn công quả thận mới.
Những ai cần ghép thận?
Ghép thận là một giải pháp cho những trường hợp mà thận đã ngừng hoạt động hoàn toàn. Tình trạng này được gọi là suy thận mạn giai đoạn cuối hay bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Lúc này, bác sĩ sẽ chỉ định lọc máu. Ngoài ra, bác sĩ sẽ cho biết người bệnh có phù hợp ghép thận hay không dựa trên một số yếu tố như tình trạng sức khỏe tổng thể.
Người bệnh cần có đủ sức khỏe để trải qua một ca đại phẫu và chịu được chế độ dùng thuốc nghiêm ngặt suốt đời sau phẫu thuật thì mới có thể ghép thận. Người bệnh cần tuân thủ đúng tất cả các hướng dẫn của bác sĩ và uống thuốc đều đặn.
Nếu người bệnh mắc một bệnh lý nghiêm trọng khác ngoài suy thận thì việc ghép thận có thể gây nguy hiểm hoặc khó thành công. Ví dụ về những bệnh lý này gồm có:
- Đang bị ung thư hoặc có tiền sử ung thư gần đây
- Nhiễm trùng nghiêm trọng, chẳng hạn như bệnh lao, nhiễm trùng xương hoặc viêm gan
- Bệnh tim mạch nặng
- Bệnh gan
Ghép thận cũng không phù hợp với những người:
- Hút thuốc lá
- Uống nhiều rượu
- Sử dụng chất cấm
Nếu bác sĩ cho rằng người bệnh phù hợp ghép thận và người bệnh cũng có mong muốn ghép thận thì người bệnh sẽ phải trải qua quá trình khám sức khỏe, bao gồm cả sức khỏe thể chất lẫn tâm lý để kiểm tra xem có đủ điều kiện làm phẫu thuật hay không. Người bệnh sẽ phải làm xét nghiệm máu và xét nghiệm nước tiểu cũng như một số bước kiểm tra khác.
Một nhà tâm lý học và một nhân viên xã hội cũng sẽ gặp người bệnh để đảm bảo rằng người bệnh có thể hiểu và tuân theo một chế độ điều trị phức tạp. Nhân viên xã hội sẽ đảm bảo rằng người bệnh có đủ khả năng chi trả cho thủ tục và rằng người bệnh được hỗ trợ đầy đủ sau khi xuất viện.
Nếu người bệnh đủ điều kiện ghép thận và trong gia đình có người hiến thận phù hợp thì có thể tiến hành ghép ngay. Nếu không, người bệnh sẽ được thêm vào danh sách chờ ghép thận. Thời gian chờ có thể là vài tháng hoặc lâu hơn.
Ai là người hiến thận?
Người hiến thận có thể là người còn sống hoặc người đã chết não.
Người hiến còn sống
Vì cơ thể vẫn có thể hoạt động bình thường khi chỉ còn một quả thận khỏe mạnh nên thận hiến có thể đến từ một người còn sống. Người này thường là một người thân trong trong gia đình của người bệnh.
Nếu máu và mô của người thân tương hợp với máu và mô của người bệnh thì có thể tiến hành ca phẫu thuật ghép thận ngay lập tức.
Ghép thận sử dụng thận của người thân trong gia đình là tốt nhất vì điều này giảm thiểu nguy cơ cơ thể người bệnh thải trừ tạng ghép và người bệnh không cần phải chờ đợi lâu để tìm người hiến thận phù hợp.
Người hiến đã chết não
Thận hiến cũng có thể đến từ một người đã chết não, thường là do tai nạn. Bản thân người này đã đăng kí hiến tạng khi còn sống hoặc người thân đăng ký hiến tạng sau khi người đó mất.
Nếu ghép thận từ một người không cùng huyết thống thì khả năng cơ thể thải trừ tạng ghép sẽ cao hơn. Tuy nhiên, đây là một lựa chọn thay thế trong những trường hợp mà người thân của người bệnh không đồng ý hoặc không thể hiến thận.
Quá trình tìm người hiến thận
Trong quá trình kiểm tra trước khi ghép thận, người bệnh sẽ phải làm xét nghiệm máu để xác định nhóm máu (A, B, AB hoặc O) và kháng nguyên bạch cầu người (human leukocyte antigen - HLA). HLA là một nhóm các kháng nguyên nằm trên bề mặt của bạch cầu. Kháng nguyên là những chất mà khi vào cơ thể sẽ gây ra đáp phản ứng miễn dịch.
Nếu loại HLA của người bệnh tương hợp loại HLA của người hiến tạng thì khả năng cao là cơ thể người bệnh sẽ không thải trừ thận ghép. Mỗi người có 6 kháng nguyên, trong đó có 3 kháng nguyên được thừa hưởng từ cha và 3 kháng nguyên được thừa hưởng từ mẹ. Người bệnh càng có nhiều kháng nguyên tương hợp với kháng nguyên của người hiến thì cơ hội ghép thận thành công sẽ càng cao.
Sau khi tìm được người hiến thận phù hợp, người bệnh sẽ tiếp tục phải làm xét nghiệm để đảm bảo rằng các kháng thể sẽ không tấn công tạng ghép sau phẫu thuật. Điều này được kiểm tra bằng cách trộn một lượng nhỏ máu của người bệnh với máu của người hiến tạng.
Nếu như máu của người bệnh phản ứng với máu của người hiến tạng và hình thành kháng thể thì sẽ không thể tiến hành ghép thận.
Nếu máu của người bệnh không hình thành kháng thể thì được gọi là “phản ứng chéo” và điều này có nghĩa là có thể tiến hành ghép thận.
Ghép thận được thực hiện như thế nào?
Nếu như sử dụng thận từ người hiến còn sống thì có thể lên lịch phẫu thuật từ trước.
Tuy nhiên, nếu người bệnh không có người thân hiến thận và phải ở trong danh sách chờ thì sẽ phải luôn chuẩn bị sẵn sàng và đến bệnh viện ngay khi được thông báo tìm được người hiến phù hợp.
Khi đến bệnh viện, người bệnh sẽ được lấy mẫu máu để làm xét nghiệm kháng thể. Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy phản ứng chéo âm tính thì có thể tiến hành ca phẫu thuật.
Người bệnh sẽ được gây mê toàn thân, có nghĩa là sẽ hoàn toàn không còn cảm giác và nhận thức trong suốt ca phẫu thuật. Thuốc mê sẽ được đưa vào cơ thể người bệnh qua đường tĩnh mạch ở bàn tay hoặc cánh tay.
Khi người bệnh đã được gây mê, bác sĩ sẽ rạch một đường ở bụng và đưa quả thận của người hiến vào bên trong. Sau đó, bác sĩ nối các động mạch và tĩnh mạch của quả thận với các động mạch và tĩnh mạch của người bệnh để máu chảy đến quả thận mới.
Bác sĩ cũng sẽ nối niệu quản của quả thận mới vào bàng quang của bệnh để người bệnh có thể đi tiểu bình thường. Niệu quản là ống dẫn nước tiểu từ thận đến bàng quang.
Quả thận bị hỏng của người bệnh vẫn được để nguyên, trừ khi gây ra vấn đề, chẳng hạn như cao huyết áp hoặc nhiễm trùng.
Sau ghép thận
Sau ca phẫu thuật, người bệnh sẽ được chuyển đến phòng hồi sức và được theo dõi các dấu hiệu sinh tồn, gồm có huyết áp, nhịp tim, nhịp thở, thân nhiệt cho đến khi tỉnh lại và ổn định. Sau đó, người bệnh được chuyển đến phòng nội trú.
Cho dù cảm thấy khỏe mạnh sau khi ghép thận (đa số các trường hợp đều cảm thấy như vậy) thì người bệnh vẫn phải ở lại bệnh viện vài ngày đến một tuần sau ca phẫu thuật.
Quả thận mới có thể bắt đầu lọc máu ngay lập tức hoặc phải sau vài tuần mới bắt đầu hoạt động. Thận từ một người thân trong nhà thường bắt đầu hoạt động sớm hơn so với thận của người hiến không cùng huyết thống hoặc người hiến chết não.
Người bệnh sẽ cảm thấy rất đau và nhức ở vị trí đường rạch trong thời gian đầu sau phẫu thuật. Trong khi người bệnh ở bệnh viện, bác sĩ sẽ theo dõi các biến chứng. Người bệnh sẽ phải dùng thuốc ức chế miễn dịch (thuốc chống thải ghép) theo một lịch trình nghiêm ngặt hàng ngày để ngăn cơ thể thải trừ quả thận mới.
Trước khi xuất viện, người bệnh sẽ được hướng dẫn chi tiết cách thức và thời điểm dùng thuốc. Hãy nhớ kỹ những gì được hướng dẫn vì điều này rất quan trọng sau phẫu thuật ghép tạng. Người bệnh cũng sẽ được hẹn lịch tái khám để kiểm tra chức năng của quả thận mới và tình trạng sức khỏe sau ca phẫu thuật.
Người bệnh sẽ phải dùng thuốc chống thải ghép theo đúng chỉ dẫn. Thuốc chống thải ghép làm giảm chức năng miễn dịch nên sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Do đó, bác sĩ sẽ kê thêm các loại thuốc khác để giảm nguy cơ nhiễm trùng. Sau khi ghép thận, người bệnh cần chú ý đến các thay đổi trên cơ thể như đau, sưng và các triệu chứng giống như cúm. Đó có thể là những dấu hiệu cho thấy cơ thể đang tấn công quả thận mới.
Người bệnh sẽ cần tái khám thường xuyên trong 1 đến 2 tháng đầu sau phẫu thuật. Thời gian phục hồi sau ghép thận có thể mất khoảng 6 tháng.
Rủi ro của ghép thận
Ghép thận là một loại đại phẫu và do đó tiềm ẩn nhiều rủi ro như:
- Phản ứng dị ứng với thuốc gây mê toàn thân
- Chảy máu
- Cục máu đông
- Rò rỉ niệu quản
- Tắc nghẽn niệu quản
- Nhiễm trùng
- Thải trừ thận ghép
- Quả thận ghép không hoạt động tốt
- Nhồi máu cơ tim
- Đột quỵ
Nguy cơ thải ghép
Rủi ro lớn nhất của ghép thận là cơ thể người bệnh thải trừ quả thận ghép. Tình trạng này được gọi là thải ghép nhưng điều này hiếm khi xảy ra.
Theo một thống kê, 90% số người được ghép thận từ một người hiến còn sống sẽ sống thêm được ít nhất 5 năm sau phẫu thuật. Tỷ lệ này ở những trường hợp ghép thận từ người hiến chết não là 82%. (1)
Nếu người bệnh nhận thấy vị trí đường rạch bị đau nhức bất thường hoặc thay đổi lượng nước tiểu thì cần đi khám ngay. Nếu xảy ra thải ghép thì người bệnh có thể sẽ phải tiếp tục lọc máu và chờ tìm người hiến mới nếu như vẫn muốn ghép thận.
Thuốc ức chế miễn dịch hay thuốc chống thải ghép mà người bệnh phải sử dụng sau phẫu thuật ghép tạng có thể gây ra một số tác dụng phụ như:
- tăng cân
- loãng xương
- mọc lông không mong muốn
- nổi mụn
- tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư da và ung thư hạch không Hodgkin
Người bệnh có thể trao đổi với bác sĩ để hiểu rõ hơn về những vấn đề không mong muốn khi dùng thuốc chống thải ghép.
Những người mắc bệnh suy thận cần phải chú ý đến lượng natri, kali và phốt pho trong chế độ ăn uống. Những khoáng chất này có trong nhiều loại thực phẩm khác nhau như nước ngọt có ga, gạo lứt, chuối, thịt chế biến sẵn và trái cây sấy khô.
Ở những người bị suy thận và mắc bệnh tim, lợi ích của việc điều trị bằng statin có thể sẽ lớn hơn rủi ro. Tuy nhiên, phương pháp điều trị sẽ thay đổi theo từng giai đoạn của bệnh suy thận.
Chạy thận nhân tạo thường được chỉ định cho những người bị suy thận mạn giai đoạn cuối, khi chức năng thận chỉ còn 10 đến 15% so với chức năng bình thường.
Ở giai đoạn 4 của bệnh suy thận mạn, thận đã bị tổn thương nghiêm trọng và không thể hồi phục. Tuy nhiên, vẫn còn có những cách để làm chậm hoặc ngăn chặn sự tiến triển của bệnh.
Phẫu thuật điều trị các vấn đề về tim có thể gây suy giảm chức năng thận tạm thời hoặc làm trầm trọng thêm vấn đề về thận hiện có. Các giải pháp điều trị suy thận gồm có lọc máu và ghép thận.