HẬU SẢN THƯỜNG
1. NHỮNG HIỆN TƯỢNG GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ
1.1. Định nghĩa
Khi có thai các cơ quan sinh dục và vú phát triển dần. Sau khi đẻ, cơ quan sinh dục trở lại tình trạng bình thường như khi không có thai. Thời gian trở lại bình thường của cơ quan sinh (trừvú vẫn phát triển để tiết sữa) về mặt giải phẫu và sinh lý gọi là thời kỳ hậu sản.
Thời kỳ hậu sản về phương diện giải phẫu là 42 ngày kể từ sau khi đẻ vì ở những người không cho con bú kinh nguyệt có thể xuất hiện trở lại.
1.2. Thay đổi ở tử cung
1.2.1. Thay đổi ở thân tử cung
Ngay sau khi rau sổ, tử cung co chặt lại thành một khối chắc, đáy tử cung ở ngay dưới rốn. Trọng lượng tử cung lúc đó nặng khoảng 1000g, hết tuần lễ - nhất tử cung còn nặng khoảng 500g, đến cuối tuần lễ thứ hai còn khoảng 300g và các ngày sau đó còn nặng 100g, đến cuối thời kỳ hậu sản tử cung trở về trọng lượng bình thường như khi chưa có thai (50-60g).
- Trên lâm sàng ta nhận thấy có ba hiện tượng:
- Sự co cứng: sau sổ rau, tử cung co cứng lại để thực hiện tắc mạch sinh lý. Trên lâm sàng tử cung co lại thành một khối chắc, gọi là khối an toàn của tử cung. Khối an toàn này tồn tại vài giờ sau khi đẻ.
- Sự co bóp của tử cung: trong những ngày đầu sau đẻ, tử cung có những cơn co bóp để tống sản dịch ra ngoài. Trên lâm sàng thỉnh thoảng sản phụ có những cơn đau và sau mỗi cơn đau có ít máu cục và sản dịch chảy ra ngoài qua đường âm đạo. Các cơn đau này thường gặp ở người con ra nhiều hơn so với người đẻ con so.
- Sự co hồi tử cung: ngay sau khi đẻ, đáy tử cung ở trên khớp vệ khoảng 13cm, các ngày sau đó, đáy tử cung thấp dần xuống trung bình mỗi ngày co hồi được 1cm, riêng ngày đầu tiên có nhanh hơn, có thể có được 2-3cm. Sau 2 tuần lễ, không sờ thấy đáy tử cung trên khớp vệ nữa. Tử cung trở lại trạng thái bình thường về kích thước, trọng lượng và vị trí như khi chưa có thai trong vòng 4 tuần lễ sau đẻ.
1.2.2. Thay đổi ở lớp cơ tử cung
- Sau khi đẻ, lớp cơ tử cung dày 4-5cm, thành trước và thành sau co chặt sát vào nhau, các mạch máu bị bóp nghẹt do cơ tử cung co cứng nên khi cắt lớp cơ tử cung sau để thấy có biểu hiện thiếu máu, nhợt màu khác với tử cung khi có thai có màu tím do tăng sinh các mạch máu.
- Lớp cơ tử cung mỏng dần đi do các sợi cơ nhỏ đi và ngắn lại, một số sợi cơ thoái hoá mỡ và tiêu đi. Các mạch máu cũng co lại do sự co hồi của lớp cơ đan.
1.2.3. Thay đổi ở đoạn dưới tử cung và cổ tử cung
- Đoạn dưới tử cung sau đẻ co gập lại như một đàn xếp, dần dần ngắn lại và đến ngày thứ tự sau đẻ thì đoạn dưới hình thành trở lại eo tử cung.
- Sau khi đẻ, đoạn dưới và cổ tử cung gian mỏng và xẹp lại. Mép ngoài cổ tử cung (tương ứng với lỗ ngoài cổ tử cung) thường bị rách sang hai bên. Cổ tử cung cũng co nhỏ lại và ngắn dần. Lỗ trong cổ tử cung đóng vào ngày thứ 5 đến ngày thứ 8 sau đẻ, ống cổ tử cung được tái lập lại như khi chưa có thai. Lỗ ngoài cổ tử cung đóng lại chậm hơn, vào khoảng ngày thứ 12-13 sau đẻ. Tuy nhiên, ống cổ tử cung không còn hình trụ nữa mà thường là hình nón, đáy ở dưới vì lỗ ngoài cổ tử cung đã bị biến dạng từ hình tròn trở thành hình dẹt và thường hé mở.
1.2.4. Thay đổi ở phúc mạc và thành bụng
- Vì cơ tử cung co rút và co hồi nhỏ dần lại sau đẻ, phúc mạc phủ trên tử cung cũng co lại tạo thành các nếp nhăn. Các nếp nhăn này mất đi nhanh chóng do phúc mạc co lại và teo đi.
- Ở thành bụng, các vết rạn da vẫn còn tồn tại. Các cơ thành bụng cũng có dần lại. Các cân và đặc biệt cần cơ thẳng to cũng co dần lại nhưng thành bụng vẫn nhão hơn so với khi chưa có thai, đặc biệt là ở những người đẻ nhiều lần, đẻ thai to, đa thai, đa ối....
1.2.5. Thay đổi ở niêm mạc tử cung
- Rau bong ở lớp xốp, khi sổ ra ngoài rau mang theo lớp đặc của ngoại sản mạc.
- Lớp màng rụng nền (basal decidua) vẫn còn nguyên vẹn và sẽ phát triển phục hồi lại niêm mạc tử cung.
- Ở vùng rau bám: lớp cơ tử cung ở chỗ rau bám mỏng hơn các nơi khác, khi kiểm soát tử cung thấy vùng này lõm vào, sần sùi vì sau khi sổ rau, tử cung co chặt lại tạo thành khối an toàn các hồ huyết và mạch máu tắc lại, các huyết cục phồng lên như những nấm nhỏ. Ngay sau khi đẻ, vị trí rau bám có kích thước bằng lòng bàn tay nhưng nó thu nhỏ lại rất nhanh. Cuối tuần lễ thứ hai, nó chỉ còn 3-4cm đường kính. Sự phục hồi hoàn toàn niêm mạc tử cung ở vị trí rau bám có thể kéo dài tới 6 tuần lễ.
- Ở vùng màng rau bám không có tắc huyết như ở vùng rau bám nên sờ thấy nhăn.
- Sau đẻ, niêm mạc tử cung sẽ trải qua hai giai đoạn để trở lại có chức phận của niêm tử bình thường.
- Giai đoạn thoái triển: xảy ra trong 14 ngày đầu sau đẻ. Trong 2-3 ngày đầu sau đẻ lớp màng rụng còn lại sẽ biệt hoá thành hai lớp. Lớp bề mặt (các ống tuyến, sản bào...) bị hoại tử và thoát ra ngoài cùng sản dịch. Lớp đáy gồm đáy tuyến vẫn còn nguyên vẹn và là nguồn gốc của niêm mạc tử cung mới. mac cung
- Giai đoạn phát triển: các tế bào trụ trong đáy các tuyến phát triển và phân bào dưới ảnh hưởng của estrogen và progesteron. Sau 6 tuần lễ sau đẻ, niêm mạc tử cung được phục hồi hoàn toàn và sẽ thực hiện chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên sau khi đẻ nếu như không cho con bú.
1.3. Thay đổi ở các phần phụ, âm đạo và âm hộ
- Buồng trứng, vòi trứng, dây chằng tròn, dây chằng rộng dần dần trở lại bình thường về chiều dài, hướng và vị trí.
- Âm hộ và âm đạo bị giãn căng trong khi đẻ cũng co dần lại và 15 ngày sau đẻ sẽ trở lại vị trí bình thường.
- Riêng màng trinh, sau khi đẻ bị rách chỉ còn di tích của rìa màng trinh.
1.4. Thay đổi ở hệ tiết niệu
- Sau khi đẻ, không chỉ thành bàng quang bị phù và sung huyết mà còn cả hiện tượng sung huyết ở dưới niêm mạc bàng quang. Hơn nữa, bàng quang có hiện tượng tăng dung tích và mất nhạy cảm tương đối với áp lực của lượng nước tiểu ở trong bàng quang. Vì vậy, cần phải chú ý theo dõi hiện tượng bí đái hoặc đái sót nước tiểu sau đẻ. Tác dụng gây liệt cơ của thuốc mê, đặc biệt là gây tê tuỷ sống, rối loạn chức năng thần kinh tạm thời của bàng quang là các yếu tố góp phần thêm vào. Ứ nước tiểu và vi khuẩn niệu ở một bàng quang bị chấn thương cộng thêm bể thận và niệu quản bị giãn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng đường tiết niệu sau đẻ phát triển. Bể thận và niệu quản bị giãn sẽ trở lại trạng thái bình thường sau đẻ từ 2 đến 8 tuần lễ.
1.5. Thay đổi ở vú
- Ngược lại với cơ quan sinh dục, vú sau đẻ phát triển nhanh, vú căng lên, to và rắn chắc. Núm vú to và dài ra, các tĩnh mạch dưới da vú nổi lên rõ rệt. Các tuyến sữa phát triển to lên, nắn thấy rõ ràng, có khi lan tới tận nách. Lúc đó vú sẽ tiết ra sữa mà trên lâm sàng gọi là hiện tượng xuống sữa. Hiện tượng này thường xảy ra sau đẻ 2-3 ngày. Cơ chế của hiện tượng xuống sữa: sau đẻ nồng độ estrogen tụt xuống đột ngột, prolactin được giải phóng và tác dụng lên tuyến sữa gây ra sự tiết sữa.
- Sự tiết sữa được duy trì bởi động tác mút đầu vú, nó kích thích thuỳ trước tuyến yên do đó prolactin được tiết ra liên tục. Mặt khác do tác dụng của động tác mút vú, thuỳ sau tuyến yên tiết ra oxytoxin làm cạn sữa ở tuyến bài tiết sữa.
2. NHỮNG HIỆN TƯỢNG LÂM SÀNG
2.1. Sự co hồi tử cung
- Sau đẻ tử cung co lại cao trên khớp mu 13cm, ở dưới rốn hai khoát ngón tay. Trung bình mỗi ngày tử cung co hồi lại 1 cm, riêng ngày đầu co nhanh hơn, có thể được 2-3 cm và đến ngày thứ 12-13 thì không nắn thấy đáy tử cung trên khớp vệ nữa.
- Vì trong tử cung vẫn còn máu cục, sản dịch nên thỉnh thoảng tử cung có những cơn co bóp mạnh để tống máucục vàsản dịch ra ngoài gây ra những cơn đau gọi là cơn đau tử cung. Ở người con so thường ít gặp vì chất lượng cơ tử cung còn tốt, tử cung luôn luôn có chặt lại. Các cơn đau tử cung thường gặp ở người con ra, mức độ đau nhiều hay ít tuỳ theo cảm giác của mỗi người nhưng càng đẻ nhiều lần càng đau vì chất lượng cơ tử cung yếu dần, tửcung càng cần phải co bóp mạnh hơn các lần trước để đẩy máu cục và sản dịch ra ngoài. Đôi khi, các cơn đau tử cung này cần phải dùng thuốc giảm đau vì cường độ quá mạnh. Ở một số sản phụ, các cơn đau này có thể kéo dài nhiều ngày.Các cơn đau tửcung đặc biệt cũng có thể gặp khi cho trẻ bú do oxytoxin được giải phóng ra nhiều. Thông thường các cơn đau giảm dần về cường độ và sản phụ cảm thấy dễ chịu vào ngày thứ ba sau đẻ.
- Trong những ngày sau đẻ cần phải theo dõi sự co hồi tử cung bằng cách đo chiều cao tử cung, tính từ khớp mu tới đáy tử cung hàng ngày. Sự co hồi tử cung phụ thuộc vào:
- Ở người con so tử cung co hồi nhanh hơn ở người con rạ.
- Tử cung ở người đẻ thường có nhanh hơn ở người mổ đẻ.
- Những người cho con bú tử cung co nhanh hơn người không cho con bú.
- Tử cung bị nhiễm khuẩn có hồi chậm hơn tử cung không bị nhiễm trùng.
- Trường hợp bị đái, táo bón sau đẻ tử cung bị đẩy lên cao và co hồi chậm.
- Trên lâm sàng nếu thấy tử cung co hồi chậm, sốt, tử cung còn to và đau, sản dịch hội cần phải nghĩ tới nhiễm khuẩn hậu sản.
2.2. Sản dịch
- Sản dịch là dịch từ tử cung và đường sinh dục chảy ra ngoài trong những ngày đầu của thời kỳ hậu sản.
- Cấu tạo: sản dịch được cấu tạo bởi máu cục và máu loãng chảy từ niêm mạc tử cung, nhất là từ vùng rau bám, các mảnh ngoại sản mạc, các sản bào, các tế bào biểu mô ở cổ tử cung và âm đạo bị thoái hoá và bong ra.
- Tính chất: trong ba ngày đầu, sản dịch gồm toàn máu loãng và máu cục nhỏ nên có màu đỏ sẫm. Từ ngày thứ tư đến ngày thứ tám, sản dịch loãng hơn, chỉ còn có một chất nhầy có lẫn ít máu nên có máu lờ lờ máu cá. Từ ngày thứ 9 trở đi sản dịch không có máu, chỉ là một dịch trong.
- Bình thường trong sản dịch không bao giờ có mủ. Nhưng sau khi chảy qua âm đạo, âm hộ sản dịch mất tính chất vô khuẩn và có thể bị nhiễm khuẩn các vi khuẩn gây bệnh như tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn...
- Mùi: sản dịch có mùi tanh nồng, độ pH kiềm. Nếu bị nhiễm khuẩn, sản dịch có mùi hôi.
- Khối lượng: khối lượng sản dịch thay đổi tuỳ người. Trong 10 ngày đầu, trung bình sản dịch có thể ra tới 1500g, đặc biệt vào ngày thứ nhất và ngày thứ hai ra nhiều, có thể lên tới 1000g. Các ngày sau bản dịch ít dần. Sau 2 tuần lễ Bản dịch sẽ hết hẳn.
- Ở người con so, người cho con bú, sản dịch hết nhanh và tử cung co hồi nhanh hơn.
- Ở người mổ đẻ sản dịch thường ít hơn so với người đẻ thường.
- Nếu sản dịch ra nhiều, kéo dài hoặc đã hết huyết đỏ sẫm, lại ra máu tái lại cần phải theo dõi sót rau sau đẻ.
- Trên lâm sàng, 3 tuần lễ sau đẻ ở một số sản phụ có thể ra một ít máu qua đường âm đạo, đó là hiện tượng thấy kinh non do niêm mạc tử cung phục hồi sớm.
2.3. Sự xuống sữa
- Trong thời kỳ có thai có thể đã có sữa non. Sau đẻ một vài ngày, đối với con rạ là ngày thứ 2-3, đối với con so là ngày thứ 3-4, dưới tác dụng của prolactin, hai vú sẽ căng to và tiết sữa, đó là hiện tượng xuống sữa. Khi xuống sữa, sản phụ thấy người khó chịu sốt nhẹ (< 38°C) hai vú căng tức và rắn chắc, mạch hơi nhanh. Các hiện tượng này mất đi sau khi sữa được tiết ra. Nếu sau khi sữa đã xuống rồi mà vẫn sốt phải đề phòng nhiễm khuẩn ở tử cung hay ở vú.
- Sữa non được tiết ra trong ba ngày đầu sau đẻ, có màu vàng chanh, chứa nhiều muối khoáng và protein (globulin và kháng thể), ít đường và mỡ. Sữa non phù hợp với sự tiêu hoá của sơ sinh trong những ngày đầu. Về sau sữa tiết ra sẽ đặc hơn, ngọt hơn, đó là sữa mẹ bình thư
2.4. Các hiện tượng khác
- Cơn rét run: ngay sau khi đẻ, sản phụ có thể lên cơn rét run, đó là cơn rét run sinh lý. Đặc điểm cơn rét run sinh lý là mạch, nhiệt độ, huyết áp vẫn bình thường. Cần phân biệt cơn rét run sinh lý với rét run do choáng mất máu. Trong choáng mất máu, ngoài triệu chứng rét run còn có các thay đổi về mạch, huyết áp, vã mồ hôi, các chị lạnh.
- Bí đái, tiểu tiện: sau đẻ sản phụ có thể bị bí đái, tiểu tiện do nhu động của ruột bị giảm, do chuyển dạ kéo dài, ngôi thai đè vào bàng quang.
- Các hiện tượng khác về toàn thân:
- Mạch thường chậm lại 10 nhịp/phút và tồn tại 5-6 ngày sau đẻ.
- Nhiệt độ có thể vẫn bình thường, không thay đổi.
- Huyết áp trở lại bình thường sau đẻ 5-6 giờ.
- Nhịp thở chậm lại và thở sâu hơn do cơ hoành không bị đẩy lên cao nữa.
- Máu: những ngày đầu sau đẻ, hemoglobin, hematocrit, hồng cầu hơi giảm so với trước khi chuyển dạ đẻ do lượng máu mất trong chuyển dạ đẻ. Sau một tuần lễ, khối lượng máu trở lại gần bằng trước khi có thai. Cung lượng tim còn tăng cao ít nhất 48 giờ sau đẻ. Sau 2 tuần lễ, các thay đổi này trở lại các giá trị bình thường.
- Số lượng bạch cầu, đặc biệt là bạch cầu hạt tăng lên sau đẻ. Fibrrinogen và tốc độ lắng máu còn cao ít nhất 1 tuần lễ sau khi đẻ.
- Trọng lượng cơ thể: sau đẻ sản phụ có thể sụt 3 đến 5kg do sự bài tiết mồ hôi, nước tiểu, sản dịch.
- Nếu không cho con bú, 6 tuần lễ sau để có thể có kinh lại lần đầu tiên và đó cũng là dấu hiệu chấm dứt thời kỳ hậu sản. Kỳ kinhnguyệt đầu thường nhiều và kéo dài hơn các kỳ kinh bình thường.
3. CHĂM SÓC HẬU SẢN THƯỜNG
3.1. Chăm sóc ngay sau khi đẻ
- Trong 2 giờ đầu ngay sau khi để cần theo dõi tình trạng toàn thân của sảnphụ để phát hiệm sớm tình trạng choáng sản khoa hoặc choáng mất máu. Theo dõi mạch, đo huyết áp, xoa đáy tử cung qua thànhbụng để xác định khối an toàn của tử cung sau đẻ, đánh giá lượng máu chảy ra ngoài qua âm đạo 15 phút một lần ít nhất trong thời gian 1 giờ sau đẻ.
- Cân phát hiện và xử trí sớm đờ tử cung và chảy máu sau đẻ. Ngay sau khi đẻ, tử cung co chặt lại, đáy tử cung ở dưới rốn để tạo thành khối an toàn tử cung. Nếu khám thấy mất khối an toàn, tử cung mềm, nhão hoặc tử cung to ra, đáy tử cung cao dần lên trên rốn là có máu chảy đọng lại trong buồng tử cùng.
- Cần đánh giá lượng máu chảy sau đẻ. Nguyên nhân chảy máu sau để có thể do sót rau, đờ tử cung hoặc chấn thương đường sinh dục. Máu có thể chảy ra ngoài qua đường âm đạo hoặc đọng lại trong buồng tử cung mà không chảy ra ngoài.
3.2. Chăm sóc về tinh thần
Cuộc đẻ là một biến động lớn về giải phẫu và sinh lý, đồng thời cũng là một biến động về mặt tình cảm, cuộc sống của người phụ nữ. Vì vậy cần chú ý chăm sóc động viên sản phụ, giải thích cho sản phụ yên tâm, không lo lắng sau cuộc đẻ nhất là ở những cuộc đẻ không phù hợp với ý muốn của sản phụ.
3.3. Bảo đảm các điều kiện vệ sinh tốt cho sản phụ
- Buồng nằm sau đẻ phải sạch sẽ, yên tĩnh, thoáng mát về mùa hè, đủ ấm về mùa đông, đủ ánh sáng.
- Phải có buồng điều trị cách ly cho các sản phụ những bệnh nhiễm khuẩn, bệnh truyền nhiễm để tránh sự lây lan chéo bệnh giữa các sản phụ.
- Có nhân viên phục vụ riêng.
- Hạn chế sự thăm hỏi của thân nhân để sản phụ được nghỉ ngơi và để tránh mang bệnh đến cho sản phụ và trẻ sơ sinh.
3.4. Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp
- Trong 6 giờ đâu phải được theo dõi sát từng giờ về mạch và huyết áp.
- Các ngày sau theo dõi mạch, nhiệt độ hàng ngày để phát hiện sớm các triệu chứng nhiễm khuẩn hậu sản.
3.5. Theo dõi sự co hồi tử cung
- Hàng ngày đo chiều cao tử cung trên khớp vệ và sờ nắn tử cung để đánh giá:
- Tử cung co hồi tốt hay xấu.
- Mật độ tử cung chắc hay mềm.
- Di động tử cung hay sờ nắn tử cung có đau hay không đau.
- Nếu tử cung co hồi chậm, mật độ mềm, ấn đau là tử cung bị nhiễm khuẩn, cần được điều trị sớm.
3.6. Theo dõi sản dịch
- Hàng ngày theo dõi sản dịch bằng cách xem khố của sản phụ để đánh giá.
- Số lượng sản dịch nhiều hay ít.
- Có bị bế sản dịch sau đẻ không (không có sản dịch).
- Màu sắc sản dịch.
- Mùi sản dịch không hôi, nếu có mùi hôi là có sự nhiễm khuẩn ở tử cung.
3.7. Làm thuốc ngoài
- Rửa sạch vùng âm hộ, tầng sinh môn và hậu môn cho sản phụ mỗi ngày ítnhất hai lần, bằng nước chín hoặc dung dịch sát trùng nhẹ (Betadine) sau đó khố vô khuẩn. Không được thụt rửa âm đạo vì cổ tử cung trong những ngày đầu sau đẻ chưa đóng lại, nước có thể qua cổ tử cung và buồng tử cung gây nhiễm trùng ngược dòng.
- Đối với các trường hợp có rách hoặc cắt, khâu tầng sinh môn, sau khi làm thuốc phải thấm khô, đóng khố sạch.
- Chú ý kỹ thuật làm thuốc ngoài chỉ rửa từ phía âm hộ xuống hậu môn chứ không được làm ngược lại.
3.8. Theo dõi đại, tiểu tiện
- Sau đẻ sản phụ dễ bị bí đái và táo bón do tình trạng giả nhu động ruột và liệt cơ bàng quang. Nếu sau đẻ 12 giờ mà sản phụ không tự đái được mặc dù đã điều trị nội khoa như xoa vùng bàng quang, chườm nóng, châm cứu... thì phải thông bàng quang sau đó bơm vào bàng quang 5-10ml dung dịch glycerin borat % để kích thích sự co bóp của bàng quang. Nếu vẫn chưa tự đái được thì các ngày sau phải rửa bàng quang sau đó bơm glycerin borat và cho đến khi nào tự đái được.
- Nếu sản phụ bị táo bón cần cho thuốc nhuận tràng, uống dầu parafin 20g.
- Sau 3 ngày không đi ngoài phải thụt tháo phân cho sản phụ hoặc bơm Microlax vào trực tràng.
- Chú ý đối với các sản phụ sau đẻ không được dùng các thuốc tẩy mạnh.
3.9. Chăm sóc vú
- Cần giữ cho đầu vú và vú sạch sẽ để tránh nhiễm khuẩn.
- Khuyên sản phụ cho con bú sớm ngay sau khi đẻ (sau 30 phút) để kích thích tiết sữa và làm cho tử cung co hồi tốt hơn.
- Nếu có hiện tượng tắc tia sữa cần phải day, vắt sữa hoặc hút sữa để đề phòng tắc tia sữa dẫn đến apxe vú.
- Nếu có nứt kẽ đầu vú phải cho trẻ ngừng bú bên vú đó, rửa sạch đầu vú, thấm khô, bôi glyceron borat 5%.
- Nếu đầu vú bị tụt vào trong cần dùng máy hút sữa để hút cho đầu vú lộ ra ngoài.
3.10. Xử trí các cơn đau
- Không cần điều trị gì trong các trường hợp đau ít. Nếu đau nhiều có thể cho dùng các thuốc giảm đau thông thường (Seda, Analgin...) hoặc chườm nóng vùng dưới rốn.
3.11. Tắm rửa
- Ngày thứ 2 sau đẻ lau mình bằng nước ấm. Có thể tắm vào ngày thứ 3 sau đẻ bằng cách dội nước. Chú ý không tắm ở nơi gió lùa hoặc tắm ngâm mình trong nước (bồn tắm, chậu, bể nước....) vì trong thời kỳ hậu sản cổ tử cung còn mở.
3.12. Vấn đề giao hợp
- Cần tránh trong thời kỳ hậu sản vì dễ gây nhiễm khuẩn.
3.13. Chế độ ăn, mặc, vận động
- Chế độ ăn: ăn đủ chất đạm, lipid, glucid, muối khoáng và vitamin để nuôi dưỡng cơ thể, đủ sữa cho con bú. Kiêng các chất kích thích như rượu, chè, cà phê, thuốc lá....
- Đảm bảo chế độ ngủ đầy đủ để nhanh chóng phục hồi sức khoẻ sau đẻ và đủ sữa nuôi con.
- Chế độ mặc: quần áo mặc rộng rãi, sạch sẽ không nên mặc quần áo quá chật.
- Chế độ vận động: trong 24 giờ đầu cho sản phụ nằm bất động sau đẻ từ 6-8 giờ, sau đó nằm nghỉ tại giường nhưng có thể co duỗi chân tay, trở mình. Sau 24 giờ cho sản phụ ngồi dậy, đi lại quanh giường. Nên tập thể dục nhẹ nhàng để tránh táo bón, giúp ăn ngon miệngvà làm cho các cơ thành bụng chóng hồi phục trở lại bình thường. Một tuần lễ sau để có thể làm những việc nhẹ nhàng.
- Cần tránh lao động nặng, đặc biệt là gánh gồng, mang xách nặng trong thời kỳ hậu sản để khỏi gây ra sa sinh dục.
Hướng dẫn quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên ngành bỏng - Bộ y tế 2013
Hướng dẫn quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên ngành bỏng - Bộ y tế 2013
Hướng dẫn quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên ngành bỏng - Bộ y tế 2013
Hướng dẫn quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên ngành bỏng - Bộ y tế 2013
Có khoảng 80% các trường hợp tổn thương răng miệng xảy ra ở răng cửa và có thể tác động đến cả phần mô mềm – lưỡi, môi và bên trong má.
Bao cao su là một biện pháp kiểm soát sinh sản và hiện nay có rất nhiều loại bao cao su khác nhau, trong đó một số loại có sẵn chất diệt tinh trùng. Chất diệt tinh trùng thường được sử dụng phổ biến nhất trong bao cao su là nonoxynol-9.
Ngay khi mang thai, bạn sẽ muốn gặp bác sĩ sản khoa hoặc bác sĩ hộ sinh để thăm khám tiền sản. Họ sẽ bắt đầu bằng cách hỏi bạn một số câu hỏi.
Insulin thường (insulin người) dạng dung dịch tiêm dưới da kê đơn được kết hợp cùng với chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục để kiểm soát tình trạng đường trong máu cao do bệnh tiểu đường type 1 hoặc type 2.
Thủ dâm là một hành động tự nhiên, lành mạnh và an toàn. Thủ dâm không gây ra bất kỳ tác hại nào cho sức khỏe như nhiều người vẫn lầm tưởng.
- 1 trả lời
- 1823 lượt xem
- Bác sĩ ơi, em bé nhà tôi thường xuyên bị nấc cụt trong tử cung. Hiện tượng này có bình thường không, thưa bác sĩ?
- 1 trả lời
- 868 lượt xem
- Bác sĩ ơi, từ khi mang thai, nhiều lúc tôi có cảm giác người mình cứ chông chênh, đứng không vững. Bác sĩ có thể lý giải tình trạng mất cân bằng ở thai phụ giúp tôi không ạ? Cảm ơn bác sĩ!
- 1 trả lời
- 1168 lượt xem
- Bác sĩ ơi, tôi đang có thai lần thứ hai nhưng không có triệu chứng gì, như vậy có bình thường không ạ? Cảm ơn bác sĩ!
- 1 trả lời
- 905 lượt xem
- Chào bác sĩ! Họng của con tôi bị sưng, đỏ. Bác sĩ cho tôi hỏi, cháu bị viêm họng thông thường hay bị viêm họng do strep (liên cầu khuẩn) gây nên ạ? Và những dấu hiệu nào thực sự là tình trạng nhiễm trùng vi khuẩn trep? Cảm ơn bác sĩ!
- 1 trả lời
- 2360 lượt xem
Bác sĩ ơi, cho em hỏi, bé nhà em được 3 tuần tuổi, mỗi khi cháu khóc đều không ra nước mắt. Như thế thì có bình thường không ạ?