Các giai đoạn của ung thư tuyến tiền liệt
Ung thư tuyến tiền liệt là bệnh ung thư phổ biến thứ hai ở nam giới, chỉ sau ung thư da. Chỉ tính riêng năm 2018, gần 1,3 triệu ca ung thư tuyến tiền liệt mới được báo cáo trên toàn thế giới.
Ung thư tuyến tiền liệt thường tiến triển chậm và ít nghiêm trọng hơn so với nhiều bệnh ung thư khác. Nếu ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ở giai đoạn đầu thì cơ hội sống sót rất cao. Tỷ lệ sống 5 năm của bệnh ung thư tuyến tiền liệt là hơn 90%, có nghĩa là hơn 90% người mắc ung thư tuyến tiền liệt sống được thêm ít nhất 5 năm kể từ thời điểm chẩn đoán.
Ung thư tuyến tiền liệt được chia thành 4 giai đoạn dựa trên mức độ tiến triển của bệnh.
Ở giai đoạn đầu, tế bào ung thư chỉ giới hạn bên trong tuyến tiền liệt và chưa lan sang mô xung quanh. Khi sang giai đoạn 4, tế bào ung thư đã lan ra các khu vực bên ngoài tuyến tiền liệt và có thể lan đến các bộ phận ở xa trong cơ thể người bệnh. Điều này được gọi là di căn.
Trong bài viết này, hãy cùng tìm hiểu về những gì diễn ra trong các giai đoạn của bệnh ung thư tuyến tiền liệt và các lựa chọn điều trị.
Chẩn đoán và xác định giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt
Xác định giai đoạn ung thư giúp người bệnh và bác sĩ hiểu được mức độ tiến triển của bệnh và phạm vi lan rộng của ung thư tại thời điểm chẩn đoán. Biết được giai đoạn ung thư còn giúp bác sĩ xác định được phác đồ điều trị tốt nhất cho người bệnh và dự đoán khả năng sống.
Hệ thống phân giai đoạn ung thư được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là hệ thống TNM của Ủy ban Hỗn hợp về Ung thư Hoa Kỳ (American Joint Committee on Cancer). Hệ thống này phân ung thư thành 4 giai đoạn, từ 1 đến 4.
TNM là viết tắt của tumor, nodes và metastasis, có nghĩa là hệ thống TNM phân giai đoạn ung thư dựa trên 3 yếu tố:
- Tumor: kích thước của khối u
- Node: số lượng hạch bạch huyết lân cận mà ung thư đã lan đến
- Metastasis: ung thư đã di căn đến các vị trí xa trong cơ thể hay chưa
Hệ thống phân giai đoạn TNM được sử dụng cho nhiều bệnh ung thư. Khi sử dụng hệ thống này để xác định giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt, bác sĩ sẽ còn cân nhắc đến một số yếu tố khác, gồm có:
- Mức kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA)
- Điểm ung thư tuyến tiền liệt Gleason
- Độ mô học (grade)
Mức PSA
Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (prostate-specific antigen – PSA) là một loại protein được tạo ra bởi cả tế bào bình thường và tế bào ung thư trong tuyến tiền liệt. Nồng độ PSA trong máu cao hơn bình thường có thể là dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt. Nếu mức PSA trên 4 ng/mL thì sẽ phải tiến hành thêm một số bước kiểm tra khác để xem có mắc ung thư tuyến tiền liệt hay không.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society), nếu mức PSA từ 4 đến 10 ng/mL thì khả năng mắc ung thư tuyến tiền liệt là 25%. Nếu mức PSA trên 10 ng/mL thì khả năng mắc ung thư tuyến tiền liệt là 50%. (1)
Xét nghiệm PSA thường được sử dụng để sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt, mặc dù đã có một số ý kiến tranh cãi về phương pháp này. Hiệp hội Tiết niệu Hoa Kỳ (American Urological Association) hiện khuyến nghị sàng lọc bằng xét nghiệm PSA đối với các nhóm đối tượng sau:
- Những người có nguy cơ trung bình trong độ tuổi từ 55 đến 69
- Những người có tiền sử gia đình hoặc các yếu tố nguy cơ khác của bệnh ung thư tuyến tiền liệt
Một phương pháp nữa cũng thường được sử dụng để sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt là thăm trực tràng, trong đó bác sĩ đưa ngón tay có đeo găng vào trực tràng của người bệnh để kiểm tra tuyến tiền liệt. Ngoài ra có thể phải làm các xét nghiệm máu khác và chụp cộng hưởng từ (MRI) tuyến tiền liệt để xem có thay đổi bất thường hay không.
Nếu kết quả của các phương pháp này có sự bất thường thì sẽ phải tiến hành sinh thiết. Trong quá trình sinh thiết, bác sĩ sẽ sử dụng kim dài lấy mẫu mô nhỏ từ tuyến tiền liệt. Mẫu mô này sẽ được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm sự hiện diện tế bào ung thư.
Điểm Gleason
Thang điểm Gleason được đưa ra bởi tiến sĩ Donald Gleason vào những năm 1960. Thang điểm này được sử dụng nhằm đánh giá khả năng tiến triển của ung thư tuyến tiền liệt.
Điểm Gleason được xác định dựa trên kết quả sinh thiết mô tuyến tiền liệt. Các tế bào trong mẫu mô được phân cấp độ theo thang điểm từ 1 đến 5 dựa trên độ mô học (grade). Tế bào có độ mô học bằng 1 là các tế bào tuyến tiền liệt khỏe mạnh, trong khi độ mô học bằng 5 có nghĩa là các tế bào bị đột biến và hoàn toàn không giống các tế bào khỏe mạnh.
Điểm Gleason được tính bằng cách cộng độ mô học của loại tế bào chiếm ưu thế nhất và loại tế bào chiếm ưu thế thứ nhì trong mẫu.
Ví dụ, nếu loại tế bào chiếm ưu thế nhất có độ mô học là 4 và loại tế bào chiếm ưu thế thứ nhì cũng có độ mô học là 4 thì điểm Gleason sẽ là 8.
Điểm Gleason bằng 6 được coi là ung thư cấp thấp, 7 là cấp trung bình và 8 đến 10 là ung thư cấp cao.
Điểm Gleason và nhóm độ mô học
Hiệp hội Bệnh học Tiết niệu Quốc tế (The International Society of Urological Pathology) đã công bố hệ thống phân cấp độ mô học ung thư tuyến tiền liệt sửa đổi vào năm 2014. Hệ thống này phân chia độ mô học ung thư theo nhóm, đơn giản hóa điểm Gleason và giúp đưa ra chẩn đoán chính xác hơn.
Một trong những nhược điểm lớn của thang điểm Gleason là không thể hiện rõ mức độ nguy cơ của bệnh ung thư. Điểm Gleason là tổng của độ mô học chiếm ưu thế nhất và nhì trong mẫu mô. Điểm Gleason của các ca bệnh có thể bằng nhau nhưng nếu được cộng lại từ các độ mô học khác nhau thì sẽ mang ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, điểm Gleason bằng 7 có thể là tổng của độ mô học chiếm ưu thế nhất là 3 và độ mô học chiếm ưu thế thứ nhì là 4 hoặc ngược lại. Mức độ nguy cơ trong hai trường hợp này là khác nhau:
- 3 + 4: Tế bào có độ mô học là 3 chiếm ưu thế nhất trong mẫu sinh thiết và tế bào có độ mô học là 4 chiếm ưu thế thứ nhì. Trường hợp này được coi là ung thư nguy cơ trung bình.
- 4 + 3: Tế bào có độ mô học 4 chiếm ưu thế nhất trong mẫu sinh thiết và tế bào có độ mô học là 3 chiếm ưu thế thứ nhì. Trường hợp này được coi là ung thư nguy cơ cao, có nghĩa là ung thư đã lan sang vùng mô lân cận hoặc di căn đến những vị trí ở xa.
Như vậy, cả hai trường hợp đều có điểm Gleason là 7 nhưng tiên lượng của mỗi trường hợp có sự khác biệt rất lớn.
Dưới đây là cách phân chia độ mô học ung thư theo hai hệ thống:
Độ mô học ung thư | Phân chia theo nhóm | Điểm Gleason |
Thấp đến rất thấp | Nhóm độ mô học 1 | < 6 |
Trung bình | Nhóm độ mô học 2 | 7 (3 + 4) |
Trung bình | Nhóm độ mô học 3 | 7 (4 +3) |
Cao đến rất cao | Nhóm độ mô học 4 | 8 |
Cao đến rất cao | Nhóm độ mô học 5 | 9 – 10 |
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 1
Giai đoạn 1 là giai đoạn nhẹ nhất của ung thư tuyến tiền liệt. Ở giai đoạn này, khối u có kích thước nhỏ và tế bào ung thư chưa lan ra bên ngoài tuyến tiền liệt. Giai đoạn 1 có đặc điểm là mức PSA dưới 10 ng/mL, nhóm độ mô học là 1 và điểm Gleason là 6.
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 1 có tỷ lệ sống 5 năm là gần 100%. (2)
Điều trị
Gần như tất cả các ca bệnh ung thư tuyến tiền liệt có điểm Gleason là 6 đều được khuyến nghị giám sát tích cực, ngoại trừ những trường hợp không muốn hoặc không thể sinh thiết định kỳ. Giám sát tích cực có nghĩa là người bệnh cần tái khám định kỳ để xem ung thư có tiến triển và có cần phải bắt đầu điều trị hay không.
Một lựa chọn điều trị khác là phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến tiền liệt. Trong ca phẫu thuật, toàn bộ tuyến tiền liệt cùng mô xung quanh sẽ bị cắt bỏ.
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 1 cũng có thể được điều trị bằng xạ trị hoặc xạ trị kết hợp phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt.
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2
Ở giai đoạn 2, ung thư vẫn chỉ giới hạn ở tuyến tiền liệt và chưa lan sang các hạch bạch huyết hoặc các bộ phận khác của cơ thể. Bác sĩ có thể có hoặc không sờ thấy khối u khi thăm trực tràng và khối u có thể xuất hiện trên hình ảnh siêu âm. Tỷ lệ sống 5 năm cũng là gần 100%.
Mức PSA trong giai đoạn 2 là dưới 20 ng/mL.
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2 được chia thành ba giai đoạn tùy thuộc vào nhóm độ mô học và điểm Gleason:
Giai đoạn 2A
- Nhóm độ mô học: 1
- Điểm Gleason: 6 trở xuống
Giai đoạn 2B
- Nhóm độ mô học: 2
- Điểm Gleason: 7 (3 + 4)
Giai đoạn 2C
- Nhóm độ mô học: 3 hoặc 4
- Điểm Gleason: 7 (4 + 3) hoặc 8
Điều trị
Các lựa chọn điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2 gồm có:
- Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt và một số hạch bạch huyết xung quanh
- Liệu pháp hormone, có thể phải kết hợp với xạ trị trong một số trường hợp (nhóm độ mô học 3 hoặc kết quả sinh thiết dương tính hơn 50%)
- Xạ trị chùm tia bên ngoài và/hoặc xạ trị áp sát trong một số trường hợp nhất định
- Giám sát tích cực (thường chỉ dành cho ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2A và 2B)
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 3
Ở giai đoạn 3, các tế bào ung thư đã hoặc vẫn chưa lan ra bên ngoài tuyến tiền liệt đến các khu vực xung quanh. Nếu ung thư tuyến tiền liệt chưa lan đến các bộ phận ở xa của cơ thể thì tỷ lệ sống vẫn là gần 100%.
Giống như ở giai đoạn 2, ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 3 cũng được chia thành ba giai đoạn.
Giai đoạn 3A
Ở giai đoạn này, ung thư chưa lan ra ngoài tuyến tiền liệt hoặc đến bất kỳ hạch bạch huyết nào.
- Nhóm độ mô học: 1 đến 4
- Điểm Gleason: 8 trở xuống
- PSA: 20 ng/mL trở lên
Giai đoạn 3B
Ung thư ở giai đoạn này đã phát triển ở bên ngoài tuyến tiền liệt và có thể đã lan đến túi tinh hoặc các cấu trúc khác xung quanh. Ung thư chưa lan đến các hạch bạch huyết hoặc các bộ phận khác của cơ thể.
- Nhóm độ mô học: 1 đến 4
- Điểm Gleason: 8 trở xuống
- PSA: bất kỳ
Giai đoạn 3C
Ung thư có thể đã hoặc chưa phát triển ở bên ngoài tuyến tiền liệt, chẳng hạn như các hạch bạch huyết hoặc các cơ quan lân cận khác.
- Nhóm độ mô học: 5
- Điểm Gleason: 9 hoặc 10
- PSA: bất kỳ
Điều trị
Các lựa chọn điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 3 gồm có:
- Xạ trị chùm tia bên ngoài kết hợp liệu pháp hormone
- Xạ trị (chùm tia bên ngoài và xạ trị áp sát) kết hợp với liệu pháp hormone
- Phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến tiền liệt, thường phải cắt bỏ cả các hạch bạch huyết vùng chậu; sau đó điều trị bằng xạ trị và/hoặc liệu pháp hormone
- Giám sát tích cực thường không còn phù hợp đối với các ca bệnh ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 3 vì nếu không được điều trị, nguy cơ bệnh tiến triển là rất cao.
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 4
Giai đoạn 4 là giai đoạn cuối cùng và nghiêm trọng nhất của ung thư tuyến tiền liệt. Giai đoạn 4 được phân chia thành hai giai đoạn nhỏ hơn. Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 4 có thể có bất kỳ nhóm độ mô học, mức PSA và điểm Gleason nào.
Ở giai đoạn 4, ung thư thường đã lan đến các bộ phận ở xa của cơ thể. Nếu như ung thư đã lan đến các cơ quan khác thì tỷ lệ sống 5 năm giảm xuống còn khoảng 30%. (3)
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 4 được chia thành hai giai đoạn là 4A và 4B.
Giai đoạn 4A
Ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết lân cận nhưng chưa lan đến khu vực khác trong cơ thể.
Giai đoạn 4B
Ung thư có thể đã lan đến các hạch bạch huyết ở xa cũng như các bộ phận khác của cơ thể như các cơ quan nội tạng hoặc xương.
Điều trị
Các lựa chọn điều trị ở giai đoạn này gồm có:
- Liệu pháp hormone
- Hóa trị
- Xạ trị chùm bên ngoài
- Xạ trị nhắm vào xương (nếu ung thư đã lan đến mô xương)
- Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt
Cần làm gì khi mắc ung thư tuyến tiền liệt?
Dưới đây là những điều mà người bệnh nên làm sau khi có kết quả chẩn đoán mắc ung thư tuyến tiền liệt:
- Tìm hiểu các phương pháp điều trị.
- Nói chuyện với người thân về kết quả chẩn đoán.
- Thực hiện các biện pháp giảm căng thẳng.
- Duy trì chế độ ăn uống cân bằng, đủ chất, ngủ đủ giấc và tập thể dục đều đặn.
- Tái khám đầy đủ theo lịch hẹn.
- Trao đổi với bác sĩ về các thắc mắc.
Tóm tắt các giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt
Dưới đây là bảng tóm tắt ngắn gọn các giai đoạn của bệnh ung thư tuyến tiền liệt:
Giai đoạn | Điểm Gleason | Nhóm độ mô học | Mức PSA | Vị trí ung thư trong cơ thể |
1 | 6 trở xuống | 1 | < 10ng/mL | Chỉ ở tuyến tiền liệt |
2A | 6 trở xuống | 2 | < 20ng/mL | Chỉ ở tuyến tiền liệt |
2B | 7 (3 + 4) | 2 | < 20ng/mL | Chỉ ở tuyến tiền liệt |
2C | 7 (4 + 3) hoặc 8 | 3 hoặc 4 | < 20ng/mL | Chỉ ở tuyến tiền liệt |
3A | 8 trở xuống | 1 – 4 | > 20ng/mL | Chỉ ở tuyến tiền liệt |
3B | 8 trở xuống | 1 – 4 | Bất kì | Có thể đã lan sang khu vực xung quanh |
3C | 9 hoặc 10 | 5 | Bất kì | Có thể đã lan sang khu vực xung quanh |
4A | Bất kì | Bất kì | Bất kì | Có thể đã lan sang khu vực xung quanh và các hạch bạch huyết lân cận |
4B | Bất kì | Bất kì | Bất kì | Có thể đã lan sang khu vực xung quanh và các hạch bạch huyết lân cận và các bộ phận khác của cơ thể |
Tóm tắt bài viết
Ung thư tuyến tiền liệt được phân chia thành 4 giai đoạn theo hệ thống TNM của Ủy ban Hỗn hợp về Ung thư Hoa Kỳ.
Càng về các giai đoạn sau thì tình trạng bệnh càng nghiêm trọng. Biết được ung thư đang ở giai đoạn nào sẽ giúp bác sĩ xác định phương pháp điều trị tốt nhất cho người bệnh.
Ung thư tuyến tiền liệt có tỷ lệ sống sót rất cao khi được phát hiện sớm. Khám sàng lọc định kỳ là điều rất quan trọng để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn đầu.
Những người mắc ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn đầu có thể không cần điều trị nhưng khi bệnh đã tiến triển sang giai đoạn nặng và các tế bào ung thư đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể thì giám sát tích cực sẽ không còn phù hợp nữa mà phải tiến hành điều trị.
Ung thư tuyến tiền liệt là bệnh có thể điều trị và là một trong những bệnh ung thư có tỷ lệ sống cao. Phát hiện ung thư ở giai đoạn 2 vẫn được coi là phát hiện sớm và tiên lượng sẽ tốt hơn so với những trường hợp phát hiện muộn hơn.
Khi bệnh ung thư tuyến tiền liệt tiến triển sang giai đoạn cuối, người bệnh sẽ gặp các triệu chứng như mệt mỏi, khó thở và chán ăn thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn.
Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất. Có nhiều phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt nhưng phác đồ điều trị cho mỗi ca bệnh sẽ phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, mức độ ác tính của ung thư và các yếu tố khác như tuổi tác của người bệnh.
Giống như nhiều bệnh ung thư khác, để xác nhận chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt thì bệnh nhân cần phải trải qua một vài bước kiểm tra. Bệnh ung thư có thể được phát hiện khi bệnh nhân có các triệu chứng bất thường hoặc được phát hiện qua khám sàng lọc định kỳ. Tuy nhiên, kết quả khám sàng lọc bất thường không phải lúc nào cũng chỉ ra bệnh ung thư tuyến tiền liệt.