Nội dung chính của bài viết
Lạc nội mạc tử cung là tình trạng mà những mô bình thường chỉ có ở bề mặt bên trong tử cung (nội mạc tử cung hay niêm mạc tử cung) lại phát triển ở các vị trí khác trong ổ bụng và vùng chậu.
Vào chu kỳ kinh nguyệt, những mô “lạc chỗ” này cũng phản ứng với sự dao động nội tiết tố và dày lên, bong ra giống như mô bên trong tử cung. Tuy nhiên, vì nằm bên ngoài tử cung nên chúng không thể đi ra ngoài ra qua âm đạo mà tích tụ lại, ảnh hưởng đến các cơ quan khác, gây viêm và hình thành sẹo.
Lạc nội mạc tử cung được chia thành hai dạng, dựa trên mức độ phát triển của mô niêm mạc tử cung ở các cơ quan:
Lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo là một trong những loại lạc nội mạc tử cung nghiêm trọng và gây đau đớn nhất. Mô niêm mạc tử cung có thể phát triển vào đến 5cm hoặc thậm chí sâu hơn vào các cơ quan. Những mảng mô này có thể xâm lấn sâu vào âm đạo, trực tràng và vùng mô nằm giữa hai cơ quan này, được gọi là vách ngăn trực tràng – âm đạo.
Lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo là dạng ít phổ biến hơn lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng hay ở phúc mạc (lớp màng bao phủ bề mặt bên trong của ổ bụng). Theo số liệu được công bố trên Tạp chí Quốc tế về Sức khỏe Phụ nữ (International Journal of Women’s Health), lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo chiếm 37% tổng số trường hợp lạc nội mạc tử cung.
Một số triệu chứng của lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo cũng giống như các loại lạc nội mạc tử cung khác. Các triệu chứng chung gồm có:
Ngoài ra, lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo còn có các triệu chứng riêng như:
Những triệu chứng này thường trở nên nặng hơn khi đến kỳ kinh nguyệt.
Nguyên nhân chính xác gây lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo cũng như là các loại lạc nội mạc tử cung khác vẫn chưa được xác định rõ nhưng đã có một vài giả thuyết khác nhau được đưa ra.
Trong đó, giả thuyết phổ biến nhất về nguyên nhân gây lạc nội mạc tử cung là do hiện tượng kinh nguyệt trào ngược, có nghĩa là vào kỳ kinh nguyệt, máu và mô niêm mạc tử cung chảy ngược qua ống dẫn trứng và vào vùng chậu thay vì chảy ra khỏi cơ thể qua âm đạo như bình thường. Khi máu ứ đọng ở các khu vực trong vùng chậu và bụng thì mô niêm mạc tử cung sẽ bám vào các cơ quan.
Tuy nhiên, theo một nghiên cứu gần đây thì có tới 90% phụ nữ từng bị kinh nguyệt trào ngược nhưng chỉ có rất ít trong số đó bị lạc nội mạc tử cung. Điều đó có nghĩa là nguyên nhân chưa hẳn là do kinh nguyệt trào ngược. Vì thế mà nhiều chuyên gia cho rằng nguyên nhân là do vấn đề trong hệ miễn dịch khiến cho cơ thể không thể nhận ra và phá hủy những mô niêm mạc tử cung hình thành nhầm chỗ.
Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác cũng có thể gây lạc nội mạc tử cung gồm có:
Phụ nữ trong độ tuổi từ 21 đến 25 là nhóm đối tượng có nguy cơ bị lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo cao nhất.
Lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo là một bệnh khó chẩn đoán. Hiện chưa có có hướng dẫn cụ thể nào về cách xác định bệnh này.
Đầu tiên, bác sĩ sẽ hỏi về các triệu chứng, ví dụ như:
Sau đó, bác sĩ sẽ kiểm tra âm đạo và trực tràng bằng tay để xem có bị đau, u cục hay mô bất thường hay không.
Ngoài ra có thể sẽ cần tiến hành các phương pháp dưới đây để tìm sự hiện diện bất thường của mô niêm mạc tử cung:
Sau khi xác định đúng là mô nội mạc tử cung thì bác sĩ sẽ đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình trạng. Lạc nội mạc tử cung được chia thành các giai đoạn dựa trên số lượng và độ sâu phát triển của mô nội mạc tử cung ở các cơ quan:
Tuy nhiên, giai đoạn lạc nội mạc tử cung không liên quan đến mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Nhiều người dù mới chỉ bị lạc nội mạc tử cung giai đoạn 1 hoặc 2 những đã có những triệu chứng nghiêm trọng. Lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo thường là giai đoạn 4.
Vì lạc nội mạc tử cung là một bệnh mãn tính, hiện chưa có cách chữa trị khỏi nên mục tiêu của việc điều trị là kiểm soát các triệu chứng. Bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị dựa trên mức độ nghiêm trọng của tình trạng bệnh và vị trí có mô nội mạc tử cung. Thường sẽ phải kết hợp phẫu thuật và dùng thuốc.
Bác sĩ sẽ loại bỏ đi toàn bộ mô nội mạc tử cung hình thành ở những vị trí bất thường. Nghiên cứu cho thấy phương pháp này có thể cải thiện tới 70% các triệu chứng của lạc nội mạc tử cung.
Quy trình phẫu thuật có thể được thực hiện bằng kỹ thuật nội soi ổ bụng hoặc bằng robot qua các vết mổ nhỏ.
Các kỹ thuật phẫu thuật điều trị lạc nội mạc tử cung gồm có:
Hiện nay, có hai loại thuốc chính được sử dụng để điều trị lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo và các loại lạc nội mạc tử cung khác là liệu pháp hormone và thuốc giảm đau.
Liệu pháp hormone có tác dụng làm chậm sự phát triển của mô nội mạc tử cung và giảm hoạt động của những mô bên ngoài tử cung.
Các liệu pháp hormone gồm có:
Người bệnh sẽ cần dùng thêm các loại thuốc chống viêm không steroid (NSAID) không kê đơn hoặc kê đơn, chẳng hạn như ibuprofen hoặc naproxen để làm dịu triệu chứng đau.
Những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trực tràng – âm đạo sẽ khó mang thai. Tỷ lệ mang thai ở phụ nữ bị loại lạc nội mạc tử cung này thấp hơn so với các loại lạc nội mạc tử cung khác ít nghiêm trọng hơn. Các giải pháp để tăng tỷ lệ thụ thai là phẫu thuật và thụ tinh trong ống nghiệm.
Các phương pháp phẫu thuật điều trị cũng có thể gây ra các biến chứng và rủi ro như:
-Bác sĩ có thể đưa ra một số giải pháp làm giảm chứng đầy hơi, chướng bụng cho bà bầu giúp tôi được không ạ? Cảm ơn bác sĩ!
- Bác sĩ ơi, tôi đang có thai lần thứ hai nhưng không có triệu chứng gì, như vậy có bình thường không ạ? Cảm ơn bác sĩ!
- Bác sĩ cho tôi hỏi, có phải cảm lạnh và cúm là những bệnh dễ lây nhiễm nhất trước khi triệu chứng xuất hiện không ạ?
Bác sĩ tôi hỏi, yếu tố nào có thể khiến bé nghẹt mũi mà không có các triệu chứng khác không ạ? Cảm ơn bác sĩ!
- Bác sĩ ơi, tử cung ngả sau có khó thụ thai hơn không ạ? Cảm ơn bác sĩ!
Tìm chúng tôi trên:-
-