Các lớp thành bụng cấu tạo thế nào?
1. Các lớp chính của thành bụng
Thành bụng là phần bao quanh khoang bụng và có thể được chia thành các phần trước và sau. Thành bụng trước bao gồm các lớp chính như:
- Da.
- Mô dưới da.
- Fascia: là mô liên kết cứng tạo ra một mạng lưới 3 chiều mở rộng không bị gián đoạn, nó bao quanh tất cả các cấu trúc bên trong cơ thể bạn, từ cấu trúc cơ bắp đến nội tạng. Ngoài ra, nó còn giữ chức năng như một lớp màng gắn kết các phần của cơ thể. Fascia gồm ba loại chính: superficial, visceral, và deep fascia.
- Cơ bắp.
- Phúc mạc (màng bụng): là một màng thanh mạc trơn láng, bao bọc tất cả các thành của ổ bụng, các tạng thuộc hệ tiêu hóa và che phủ phía trước hoặc trên các tạng thuộc hệ tiết niệu và sinh dục.
2. Các chức năng chính của thành bụng
Các chức năng chính của thành bụng bao gồm:
- Tạo thành một ranh giới vững chắc nhưng linh hoạt để giữ nội tạng trong khoang bụng (ổ bụng).
- Bảo vệ các cơ quan nội tạng bụng khỏi sự chấn thương
- Hỗ trợ nội tạng trong việc duy trì vị trí giải phẫu của chúng chống lại trọng lực.
- Hỗ trợ thở bụng bằng cách đẩy các cơ quan bụng về phía cơ hoành.
- Hỗ trợ cho các hoạt động như ho, nôn và đại tiện bằng cách tăng áp lực trong ổ bụng.
3. Các cơ của thành bụng
Các cơ thành bụng trước bên:
Bao gồm ba cơ ở phía bên xếp lần lượt thành ba lớp từ nông tới sâu, cụ thể là: cơ chéo bụng ngoài, cơ chéo bụng trong, cơ ngang bụng, hai cơ ở phía trước, ở giữa bụng là cơ thẳng bụng và cơ tháp.
Hai phần phải và trái của thành bụng trước gặp nhau ở đường giữa là đường trắng đi từ mũi ức đến xương mu.
Cơ thẳng bụng: cơ thẳng bụng ở giữa bao gồm 2 cơ chính là cơ thẳng to và bao cơ thẳng to. Hai cơ này bám vào 3 sụn sượng (V, VI, VII) và xương ức, sau đó đi thẳng xuống dọc hai bên đường trắng giữa và bám vào xương mu bởi 2 bó (bó trong đan chéo với bó trong cơ bên đối diện, bó ngoài tách ra 1 tạo thành dây chằng Halles tới bám vào gai háng). Có 3-5 dải ngang ở mặt trước cơ thẳng to, chia cơ thành nhiều múi. Và mỗi cơ thẳng đều được bọc trong 1 bao có độ dày mỏng khác nhau. Ở nửa trên và phía trước là các cân cơ chéo to, lá trước cân cơ chéo bé; ở phía sau gồm có lá sau của cân cơ chéo bé và cân cơ ngang bụng. Ở nửa dưới, tất cả cân cơ chéo và cân cơ ngang bụng đều chạy ra mặt trước, hình thành nên một vòng cung lõm xuống bên dưới có tên gọi là cung Douglase.
Cơ tháp: là 1 cơ nhỏ nằm áp vào mặt trước và phía dưới của cơ thẳng to.
Các cơ rộng bụng: gồm 3 cơ chính:
- Cơ chéo bụng ngoài: cơ bám vào mặt ngoài đầu trước 7 xương sườn cuối, tạo thành một hình quạt xòe ra từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong. Ở phía sau sẽ là cơ và cân nằm ở phía trước tỏa ra bám vào đường trắng giữa, vào cung đùi và mào chậu.
- Cơ chéo bụng trong: nằm bên trong cơ chéo bụng ngoài.
- Cơ ngang bụng: là cơ ở sâu nhất, bám vào cung đùi, mỏm ngang của các đốt sóng thắt lưng, mào chậu và sáu xương sườn cuối.
Các cơ thành bụng sau
Gồm cơ vuông thắt lưng và cơ thắt lưng chậu.
4. Chức năng chính của các cơ thành bụng
Dưới đây là một số chức năng chính của cơ thành bụng:
Tác dụng đầu tiên của cơ thành bụng là giữ cho các tạng trong ổ bụng. Cơ thẳng bụng là phương tiện chính để chống đỡ và dựng thành bụng. Các cơ thẳng là các dải dọc và các cơ rộng là đai ngang. Tình trạng bụng phệ xảy ra khi các cơ thành bụng yếu.
Khi các cơ bụng đều co thì đai bụng sẽ bị thắt lại, làm tăng áp lực ổ bụng, hỗ trợ cho các hoạt động như đại tiểu tiện, khi nôn, ho, hắt hơi hoặc thở mạnh.
Một chức năng nữa không thể không nhắc tới của các cơ thành bụng trước, đó là hữu ích trong thai nghén và sinh đẻ. Các cơ khỏe sẽ hỗ trợ rất tốt cho lúc rặn đẻ. Thêm vào đó, việc luyện tập cho thành bụng không bị chảy sệ và tránh để ruột không bị thoát vị ở các điểm yếu của thành bụng cũng rất cần thiết.
5. Vỏ trực tràng
Vỏ trực tràng, còn được gọi là trực tràng fascia. Nó được hình thành bởi các mạc aponeurotic của cơ bụng ngang và các cơ chéo bụng bên ngoài và bên trong. Vỏ trực tràng chứa trực tràng abdominis và cơ tháp.
Ở phía trên vỏ bọc trực tràng là hai lớp sau:
- Camper's fascia (phần trước của fascia bên ngoài).
- Scarpa's fascia (phần sau của fascia bên ngoài).
Bên trong vỏ trực tràng sẽ có các lớp khác nhau, bao gồm:
- Phía trên đường vòng cung: Ở rìa bên của trực tràng, mạc aponeurotic của cơ chéo bụng trong chia thành hai mảnh. Một trong số đó đi qua phía trước trực tràng, pha trộn với aponeurosis của cơ chéo bụng ngoài cũng như mạc aponeurotic của nửa trước của cơ chéo bụng trong. Phần còn lại sẽ hòa trộn với mạc aponeurotic của cơ ngang bụng cũng như nửa sau của cơ chéo bụng trong. Hai phần này sẽ nối lại ở biên giới giữa của trực tràng, được đưa vào đường trắng bụng.
- Bên dưới đường vòng cung: mạc aponeurotic của cả ba cơ (bao gồm cả cơ ngang) đi qua phía trước trực tràng.
Bên dưới vỏ trực tràng gồm ba lớp:
- Mạc ngang (Fascia transversalis).
- Mỡ ngoài phúc mạc.
- Phúc mạc.
6. Các dây thần kinh của thành bụng
Các dây thần kinh của thành bụng trước bao gồm:
- Dây thần kinh dưới sườn.
- Dây thần kinh chậu-hạ vị.
- Dây thần kinh chậu-bẹn.
7. Phúc mạc
Phúc mạc là phần bao bọc tất cả các cơ quan trong ổ bụng và hố chậu, lót mặt trong thành bụng, mặt dưới cơ hoành và mặt trên hoành chậu hông. Phúc mạc được cấu tạo bởi hai lớp:
Lớp thanh mạc (tế bào thượng bì vảy): tiết ra chất dịch giúp phúc mạc trơn bóng, giảm ma sát khi trượt lên nhau. Nếu lớp này bị tổn thương rất dễ bị dính vào thành bụng.
Tấm dưới thanh mạc (lớp trong): là lớp mô sợi liên kết, giúp phúc mạc chắc chắn và tạo độ đàn hồi cao.
Chức năng chính của phúc mạc bao gồm:
- Bao phủ và bảo vệ cho toàn bộ tạng
- Các tạng dễ di động, giảm sự ma sát nhờ vào đặc tính trơn láng của phúc mạc
- Đề kháng với sự nhiễm trùng: làm hàng rào bao quanh để khu trú ổ nhiễm khuẩn
- Bề mặt rộng giúp việc hấp thu diễn ra nhanh hơn, ước khoảng bằng diện tích da của cơ thể.
- Dự trữ mỡ do mỡ nằm ở khoảng giữa các mạc nối.
Tổn thương dây chằng chéo trước là thương tổn thường gặp nhất trong nhóm chấn thương khớp gối. Hàng năm, tại Mỹ khoảng 200.000 bị tổn thương dây chằng chéo trước và hơn nửa số đó phải điều trị bằng phấu thuật.
Xương quai xanh có tác dụng rất quan trọng, là nơi treo xương cánh tay vào thân. Gãy xương quai xanh là một chấn thương thường gặp ở vùng vai, trong trường hợp ngã hoặc chấn thương do tai nạn giao thông.
Hội thấp khớp học Hoa Kỳ (American College of Rheumatology, ARC) đã đưa ra một số tiêu chuẩn để chẩn đoán chính xác thoái hóa khớp gối. Những biểu hiện của thoái hóa khớp gối bao gồm: xuất hiện gai xương dưới sụn, mất dần sụn khớp, xơ hóa xương dưới sụn, cử động khớp đau, có tiếng lục khục, lệch trục khớp...
X-quang có vai trò quan trọng trong chẩn đoán các bệnh lý khớp gối. Nó là một trong những xét nghiệm nằm trong tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh và dùng phân biệt giữa các bệnh lý khớp gối khác nhau.
Xương đùi là phần xương chắc khỏe nhất trong cơ thể vì thế phải có lực tác động rất mạnh mới có thể làm gãy thân xương đùi. Xương đùi cũng là xương dài nhất, mỗi vị trí gãy sẽ có đặc điểm và biện pháp xử trí khác nhau.