Nguyên nhân nào gây ung thư buồng trứng?
Ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng là bệnh ung thư phát sinh từ buồng trứng – cơ quan tạo trứng và sản xuất các nội tiết tố nữ. Ung thư xảy ra khi các gen có vai trò kiểm soát sự phát triển tế bào trở nên đột biến, khiến cho các tế bào phát triển một cách bất thường. Những tế bào này bắt đầu nhân lên với tốc độ nhanh chóng và hình thành khối u ác tính. Nếu không được điều trị sớm, ung thư có thể lan sang các bộ phận khác trong cơ thể (di căn). Ung thư buồng trứng có thể lan ra bên ngoài buồng trứng đến các cơ quan còn lại của hệ sinh dục và nhiều cơ quan khác ở xa.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society - ACS), nguy cơ mắc ung thư buồng trứng trung bình của phụ nữ trong suốt cuộc đời là chưa đến 2%. Nguyên nhân chính xác gây ra các đột biến gen dẫn đến ung thư buồng trứng hiện vẫn chưa được xác định rõ. Tuy nhiên, một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh gồm có:
- Gen di truyền
- Bệnh sử cá nhân
- Tiền sử sản phụ khoa
- Tuổi tác
- Chủng tộc
- Chế độ ăn uống
- Chiều cao, cân nặng
Ngay cả khi có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ thì cũng chưa chắc sẽ bị ung thư buồng trứng nhưng nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn bình thường. Mặt khác, nhiều người dù không có yếu tố nguy cơ nào nhưng lại vẫn bị ung thư buồng trứng.
Các loại ung thư buồng trứng
Có nhiều loại ung thư buồng trứng khác nhau và được phân loại dựa trên tế bào nơi ung thư phát sinh:
- Ung thư biểu mô buồng trứng: ung thư bắt đầu từ lớp mô bên ngoài buồng trứng. Loại này chiếm khoảng 90% tổng số trường hợp ung thư buồng trứng.
- Ung thư mô đệm buồng trứng: hình thành trong các tế bào sản xuất hormone trong buồng trứng. Khoảng 7% trường hợp ung thư buồng trứng là ung thư mô đệm.
- Ung thư tế bào mầm buồng trứng: phát sinh từ các tế bào tạo trứng của buồng trứng. Loại ung thư buồng trứng này hiếm gặp hơn và chủ yếu xảy ra ở phụ nữ trẻ.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Đột biến gen
Nguy cơ mắc ung thư buồng trứng sẽ tăng cao hơn bình thường nếu có tiền sử gia đình:
- ung thư buồng trứng
- ung thư vú
- ung thư tử cung
- ung thư đại trực tràng
Những phụ nữ có mẹ, chị gái hoặc con gái bị ung thư buồng trứng hoặc ung thư vú có thể mang các đột biến gen làm tăng nguy cơ mắc bệnh như BRCA. Nam giới cũng có thể mang đột biến gen BRCA nên một người có thể được di truyền đột biến gen này từ cả mẹ hoặc bố.
Theo ACS, khoảng 5 đến 10% trường hợp ung thư buồng trứng là do đột biến gen di truyền. Đột biến gen BRCA, gồm có BRCA1 và BRCA2 làm tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư như:
- Ung thư vú
- Ung thư phúc mạc nguyên phát
- Ung thư ống dẫn trứng
- Ung thư tuyến tụy
- Ung thư tuyến tiền liệt
Những người mang đột biến gen BRCA1 có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng là 35 đến 70%. Khi mang đột biến gen BRCA2, nguy cơ mắc bệnh ung thư này trước tuổi 70 là 10 đến 30%.
Đột biến ở các gen dưới đây cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng:
- PTEN
- MLH1, MLH3
- MSH2, MSH6
- TGFBR2
- PMS1, PMS2
- STK11
- MUTYH
Không có cách nào có thể làm giảm nguy cơ liên quan đến gen di truyền. Nếu như có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư buồng trứng thì nên cân nhắc làm xét nghiệm di truyền để xem có mang đột biến gen hay không. Theo Liên minh về Ung thư buồng trứng Quốc gia Hoa Kỳ (Ovarian Cancer National Alliance), tất cả những phụ nữ bị mắc ung thư buồng trứng, ung thư phúc mạc nguyên phát hoặc ung thư vòi trứng nên đến gặp chuyên gia tư vấn về di truyền và cân nhắc làm xét nghiệm di truyền.
Bệnh sử cá nhân
Bệnh sử cá nhân cũng ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Những phụ nữ có tiền sử ung thư vú sẽ dễ bị ung thư buồng trứng hơn bình thường, kể cả khi không mang đột biến gen BRCA. Nếu còn có tiền sử gia đình mắc ung thư vú thì nguy cơ sẽ còn cao hơn nữa. Những người này có thể bị hội chứng ung thư vú và buồng trứng di truyền (HBOC – Hereditary Breast and Ovarian Cancer) – một hội chứng có liên quan đến đột biến gen BRCA.
Các vấn đề, bệnh lý khác cũng làm gia tăng nguy cơ ung thư buồng trứng còn có:
- Hội chứng buồng trứng đa nang – tình trạng mà buồng trứng hình thành nhiều nang nhỏ chứa dịch
- Lạc nội mạc tử cung – tình trạng các tế bào niêm mạc tử cung phát triển ở những nơi khác ngoài buồng tử cung
- Ung thư đại tràng không polyp có tính chất di truyền (hereditary nonpolyposis colon cancer) - nguyên nhân cũng do các đột biến gen làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng
- Hội chứng PTEN hamartoma (PTEN tumor hamartoma syndrome) - là một nhóm các rối loạn do đột biến gen PTEN gây ra
- Hội chứng Peutz-Jeghers - do đột biến gen STK11 gây ra
- Bệnh đa nang liên quan đến MUTYH - do đột biến gen MUTYH gây ra
Cần cho bác sĩ biết nếu đã và đang mắc một trong những bệnh lý này.
Biện pháp tránh thai và tiền sử sản phụ khoa
Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (National Cancer Institute - NCI), việc uống thuốc tránh thai giúp làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. Sử dụng thuốc càng lâu thì nguy cơ càng thấp. Lợi ích này mà thuốc tránh thai đem lại có thể kéo dài lên đến 30 năm sau khi ngừng thuốc. Từng phẫu thuật thắt ống dẫn trứng và cho con bú cũng làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư này.
Mặt khác, NCI cảnh báo rằng việc dùng các loại thuốc hỗ trợ sinh sản lại làm tăng nguy cơ hình thành khối u “tiềm năng ác tính thấp” trong buồng trứng. Những khối u này được tạo thành từ các tế bào bất thường có khả năng trở thành ung thư. Tuy nhiên, khả năng xảy ra điều này là khá thấp.
Theo Liên minh về Ung thư buồng trứng Quốc gia Hoa Kỳ, phụ nữ sẽ có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn nếu như:
- bắt đầu có kinh nguyệt trước 12 tuổi
- sinh con đầu lòng sau 30 tuổi
- chưa từng sinh con
- bắt đầu mãn kinh sau 50 tuổi
- dùng liệu pháp hormone thay thế để điều trị triệu chứng mãn kinh
Tuổi tác và chủng tộc
Nguy cơ ung thư buồng trứng tăng theo tuổi tác. Nguy cơ của những phụ nữ đã mãn kinh cao hơn so với phụ nữ còn trong độ tuổi sinh sản. Theo số liệu của ACS, một nửa số trường hợp ung thư buồng trứng được ghi nhận là những phụ nữ từ 63 tuổi trở lên. Ung thư buồng trứng là bệnh hiếm khi xảy ra ở phụ nữ dưới 40 tuổi.
Về chủng tộc thì theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), phụ nữ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha là nhóm có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao nhất. Xếp thứ hai là phụ nữ gốc Tây Ban Nha, tiếp theo là phụ nữ da đen, phụ nữ châu Á - Thái Bình Dương, phụ nữ thổ dân châu Mỹ và bản địa Alaska.
Chiều cao, cân nặng và chế độ ăn
Mối liên hệ giữa ung thư buồng trứng và chế độ ăn uống hiện vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu. Tuy nhiên, những người có chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 30 trở lên sẽ có nguy cơ cao mắc bệnh. Béo phì ở tuổi vị thành niên cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ, theo cảnh báo của NCI. Về chiều cao, cân nặng, những phụ nữ cao từ 1m72 trở lên sẽ dễ bị ung thư buồng trứng hơn.
Biện pháp giảm thiểu nguy cơ
Một số yếu tố nguy cơ ung thư buồng trứng nằm ngoài tầm kiểm soát, ví dụ như gen di truyền, chủng tộc và tuổi tác.
Bên cạnh đó lại có các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được. Phụ nữ có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng bằng những biện pháp như:
- Dùng thuốc tránh thai nhưng cần nói chuyện với bác sĩ về những lợi ích và rủi ro tiềm ẩn
- Có chế độ ăn uống cân bằng, lành mạnh
- Tập thể dục đều đặn
- Duy trì cân nặng khỏe mạnh
Nói chuyện với bác sĩ về tiền sử gia đình, bệnh sử cá nhân và thói quen sinh hoạt hàng ngày để được đánh giá khả năng mắc ung thư buồng trứng, từ đó có biện pháp giảm thiểu nguy cơ và duy trì sức khỏe một cách lâu dài.
Nếu đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng giai đoạn cuối thì bác sĩ sẽ đề nghị làm xét nghiệm di truyền tìm các đột biến gen BRCA, đặc biệt là khi có thành viên khác trong nhà cũng mắc ung thư buồng trứng.
Đôi khi phụ nữ cần cắt bỏ buồng trứng vì một số lý do như u nang buồng trứng hay ung thư buồng trứng.
Ung thư buồng trứng được cho là một trong những “kẻ giết người thầm lặng” vì nhiều phụ nữ không có bất kỳ triệu chứng nào cho đến khi bệnh di căn (lan đến những khu vực, bộ phận khác trong cơ thể).
Khi bị chẩn đoán mắc ung thư buồng trứng, có lẽ điều đầu tiên nhiều phụ nữ nghĩ đến là có chữa khỏi được không và mình còn sống được bao lâu.