Y học hạt nhân điều trị - bệnh viện 103
Đại cương
- Ngay từ khi nữ bác học Marie Curie phát minh ra đồng vị phóng xạ 226Ra đầu thế kỷ XX, đồng vị phóng xạ đã được ứng dụng trong điều trị bệnh. Cũng từ đấy ra đời lĩnh vực sinh học phóng xạ và ung thư học phóng xạ.
- 30 năm sau Chiến tranh thế giới thứ II là thời kỳ nhiều đồng vị phóng xạ được phát minh và ứng dụng trong y học. Ngày nay, đồng vị phóng xạ được ứng dụng rộng rãi cả trong chẩn đoán và trong điều trị bệnh.
- Nội dung chính của điều trị y học hạt nhân là điều trị sử dụng đồng vị phóng xạ nguồn hở: Đồng vị phóng xạ phát bức xạ beta. Đưa đồng vị phóng xạ đến cơ quan đích theo đường uống, đường tiêm hoặc truyền tĩnh mạch gọi là xạ trị chiếu trong hay xạ trị chuyển hóa.
- Sử dụng đồng vị phóng xạ nguồn hở để điều trị bệnh là một trong những ứng dụng đem lại nhiều lợi ích to lớn.
- Trong điều trị, liều dùng lớn hơn so với chẩn đoán, do đó tác động ảnh hưởng của phóng xạ lên mô lành cũng lớn hơn nhiều. Đó là một trong những khó khăn của điều trị bằng đồng vị phóng xạ.
- Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì Y học hạt nhân là phương pháp điều trị khá hiệu quả, nhanh gọn, đơn giản và ít gây phiền hà cho người bệnh.
Các đồng vị phóng xạ ứng dụng trong điều trị
Đặc trưng của một số ĐVPX ứng dụng trong điều trị:
- Đồng vị phóng xạ ứng dụng trong điều trị chiếu trong lý tưởng nhất là chỉ phát bức xạ bêta mà không có tia gamma kèm theo. Tia bêta đi được trong mô từ 1-2cm, truyền hầu hết năng lượng (gần 95%) cho các tế bào trên quãng đường đi được, thích hợp cho điều trị.
- Nhiều đồng vị phóng xạ được dùng dưới dạng muối của chúng, chẳng hạn như 131I sodium iodid, 89Sr strontium chlorid.
- Một số đồng vị phóng xạ khác lại được gắn với chất mang ổn định như diphosphonat ethylen diamin tetramethylen phosphonat (EDTMP) 153Sm, cũng có thể đồng vị phóng xạ được gắn với kháng thể như 131I-tositumomab, khi đó chúng ta gọi phương pháp là xạ trị miễn dịch.
- Ở một số nước tiên tiến, người ta dùng các đồng vị phóng xạ phát bức xạ alpha có thời gian bán rã ngắn gắn với các hợp chất sinh học dùng cho điều trị như Astratine-211 (211At), Bismuts-213 (213Bi).
- Hiệu ứng sinh học do bức xạ alpha gây ra rất lớn và do vậy có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư mạnh.
Nguồn: Bệnh viện 103
Bệnh thiếu máu ác tính thường tiến triển chậm. Bệnh này gây ra các triệu chứng tương tự như các hiện tượng mà chúng ta thi thoảng vẫn hay gặp phải nên thường khó phát hiện.
Thiếu máu là tình trạng không có đủ hồng cầu khỏe mạnh để vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Thiếu sắt là nguyên nhân phổ biến dẫn đến thiếu máu.
Sắt tích tụ trong các cơ quan có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.
Trong hầu hết các trường hợp, nguyên nhân gây ngộ độc sắt là do dùng viên uống sắt hoặc vitamin tổng hợp chứa sắt liều quá lớn. Điều này chủ yếu xảy ra ở trẻ nhỏ.
Rất nhiều thai phụ băn khoăn rằng, không biết sử dụng thuốc trị bệnh về tuyến giáp trong thời gian đang mang thai có an toàn không? Để giải đáp thắc mắc trên, mời các bạn cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây!