Điều trị bệnh lồng ruột - bệnh viện 103
1. Tháo lồng bằng bơm hơi
Ngày nay, việc tháo lồng bằng bơm hơi được sử dụng phổ biến thay cho tháo lồng bằng Baryt.
Ở Việt Nam, tháo lồng bằng bơm hơi được tiến hành từ năm 1964. Từ năm 1973, Ngô Đình Mạc đã nghiên cứu có hệ thống và toàn diện, tác giả đã sản xuất máy tháo lồng có van điều khiển áp lực nhằm đề phòng biến chứng vỡ đại tràng trong khi tháo lồng.
Hơi được bơm vào trực tràng, theo dõi sao cho áp lực không vợt quá 80 cm H2O (trẻ dưới 6 tháng) và dưới 120 cm H2O (trẻ lớn hơn 6 tháng), trong thời gian 3 phút. Tỷ lệ tháo lồng thành công là 90%, nếu bệnh nhân đến sớm (trong 24 giờ đầu).
Các tiêu chuẩn cho biết đã tháo lồng được:
- X quang: hơi từ manh tràng ùa vào đoạn cuối hồi tràng, manh tràng và đại tràng lên, ruột trở lại vị trí bình thường.
- Lâm sàng: hết đau, hết nôn, ngủ yên, ỉa phân vàng.
Cần cảnh giác với các trường hợp lồng kép hồi – hồi – đại tràng, tuy hơi đã sang ruột non nhng lồng hồi – hồi tràng vẫn còn.
2. Tháo lồng bằng nước
Hirschsprung (1876) báo cáo một loạt bệnh nhân được tháo lồng bằng áp lực nước. Ngày nay, phương pháp tháo lồng bằng nước có thể tiến hành ở phòng siêu âm. Dung dịch được dùng: nước, nước muối sinh lý hoặc dung dịch Ringer.
Dung dịch được làm ấm bằng với nhiệt độ cơ thể, bơm vào trực tràng qua ống Foley (số 10 – 18F) với áp lực 100 mmHg. Theo dõi kết quả bằng siêu âm, dấu hiệu tháo lồng thành công là: không còn hình ảnh của khối lồng, đồng thời thấy nước và bọt khí từ manh tràng tràn vào đoạn cuối hồi tràng; tỷ lệ thành công 50 – 89%.
Phương pháp này có ưu điểm: bệnh nhi không bị ảnh hưởng bởi tia Xquang.
3.Tháo lồng bằng baryte
- Năm 1913, Ladd đã sử dụng phương pháp chụp đại tràng có bơm thuốc cản quang để chẩn đoán lồng ruột. Sau này các tác giả Úc, Mỹ, Pháp đã sử dụng nh một phương pháp điều trị lồng ruột, hiện nay ít được áp dụng để điều trị. Không nên áp dụng khi lồng ruột sau 24 giờ.
- Thụt baryte chỉ là một phương pháp để chẩn đoán, không nên coi là một phương pháp điều trị, tháo được lồng ruột bằng thụt baryte chỉ nên coi là một may mắn trong quá trình tiến hành chẩn đoán.
- Bốc đựng baryte để thụt cao hơn mặt bàn 80 – 100 cm, theo dõi bệnh nhân qua màn huỳnh quang, nhất là khi thuốc đến đầu khối lồng, duy trì áp lực không quá 5 phút.
- Tiêu chuẩn tháo lồng thành công: baryte ùa vào hồi tràng (dấu hiệu bắn pháo hoa), hồi tràng và manh tràng trở về vị trí bình thường, lâm sàng hết đau, hết nôn, ỉa phân vàng.
4. Điều trị ngoại khoa
Vào giữa thế kỷ XVII, Paul Barbette đã mô tả bệnh lồng ruột và gợi ý phẫu thuật để tháo lồng. Năm 1871, Jonathan Hutchinson đã phẫu thuật tháo lồng thành công trường hợp đầu tiên.
Chỉ định: khi lồng ruột có chống chỉ định tháo lồng bằng khí hoặc khi đã tháo lồng bằng khí không có kết quả.
Vô cảm: gây mê nội khí quản.
Đường mổ: đường trắng giữa trên và dưới rốn để dễ dàng kiểm tra xử lý cắt đoạn ruột khi cần.
Kỹ thuật tháo lồng:
Khi thấy khối lồng, dùng tay nắn nhẹ nhàng từ dưới lên trên, ngược chiều nhu động ruột, đẩy lùi dần khối lồng. Nếu khó khăn, nên đắp huyết thanh ấm hoặc phóng bế Novocain mạc treo và chờ đợi.
Khi phải cắt đoạn ruột lồng bị hoại tử, nên nối ruột ngay hoặc đa ra ngoài là tùy thuộc tình trạng của ruột và ổ bụng:
- Nếu ổ bụng không viêm phúc mạc và quai ruột còn tốt: nên nối ruột ngay.
- Nếu ổ bụng viêm phúc mạc: nên dẫn lưu hai đầu ruột ra ngoài.
Cắt ruột thừa và cố định hồi tràng vào manh tràng, manh tràng vào thành bụng bên phải (không phải là một nguyên tắc bắt buộc trong lồng ruột cấp ở trẻ còn bú).
Nguồn: Bệnh viện 103
Phương pháp điều trị theo từng giai đoạn ung thư dạ dày như thế nào? Phác đồ điều trị ung thư dạ dày phụ thuộc rất nhiều vào vị trí mà ung thư bắt đầu hình thành trong dạ dày và phạm vi lan rộng của tế bào ung thư.
Loét dạ dày là bệnh có thể chữa khỏi nhưng nếu trì hoãn hoặc không điều trị đúng cách thì tình trạng sẽ ngày càng nặng và còn dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng hơn.