Khám nội soi hốc mũi - bệnh việ 103
1. Khám nội soi mũi.
Là động tác bắt buộc phải thực hiện trước tất cả các phẫu thuật NSCNMX. Ở đây chúng tôi không đi sâu vào kỹ thuật mà chỉ mô tả các thì cần thiết và các mốc giải phẫu cần chú ý. Nội soi được thực hiện bằng ống thủy tinh quang học 00, 300 hoặc 700.
Thì 1: Quan sát chung.
Phân biệt các thành phần khác nhau của hốc mũi, valve mũi, vách ngăn, cuốn dưới, cuốn giữa, các ngách mũi, lỗ mũi sau, vòm mũi – họng.
Ở những bệnh nhân bị vẹo vách ngăn nhiều, đặc biệt là ở phía trước, gây khó khăn cho việc quan sát và thao tác phẫu thuật, có khi phải tiến hành mổ chỉnh hình vách ngăn trước khi mổ NSCNMX.
Thì 2: Khám ngách giữa và ngách sàng – bướm.
- Đánh giá tình trạng cuốn mũi giữa từ trước ra sau.
- Đánh giá tình trạng khe giữa và các mốc giải phẫu quan trọng: đê mũi (agger nasi), mỏm móc, khe bán nguyệt, bóng sàng, gờ sau bóng sàng…Thì này đôi khi gặp khó khăn do vẹo vách ngăn cục bộ vùng khe giữa, cuốn giữa cong ngược ra ngoài, cuốn giữa quá thông khí (concha bullosa)…
- Tiếp theo, khám vùng vách ngăn, sàng – bướm. Vùng này nằm giữa cuốn trên và phần sau vách ngăn, giữa 2 cấu trúc giải phẫu này, có thể nhìn thấy lỗ xoang bướm ở thành sau – trên hốc mũi. Do lỗ này nằm hơi chếch về phía trên nên phải dùng ống nội soi 300 thì mới quan sát được.
Thì 3: Khám phễu sàng.
Được thực hiện bằng ống nội soi 700 để quan sát vùng phễu sàng ở phía trước, ngang tầm với phần trên của khe bán nguyệt.
Đây là thì khám tương đối khó khăn, có thể gây đau. Sau khi đã đưa ống nội soi qua đầu cuốn mũi giữa vào đường mũi giữa, xác định rễ mỏm móc và bóng sàng, đẩy nghiêng đầu ống nội soi lên phía trên nhằm xác định:
- Mỏ bóng sàng: từ bóng sàng đi chếch lên phía cao.
- Sừng bên bóng sàng: nối bóng sàng với mỏm móc.
- Sừng giữa: nối bóng sàng với cuốn giữa.
Giữa các cấu trúc này là lỗ của các tế bào sàng vùng phễu (tế bào mỏm móc, tế bào phễu, tế bào ngách). Lỗ thông của ống trán – mũi thường ở ngang tầm lỗ của tế bào ngách trước, bên ngòai rễ mỏm móc.
2. Các cấu trúc trong hốc mũi.
2.1. Các cuốn mũi.
2.1.1. Cuốn mũi dưới :
Là cấu trúc đầu tiên cần quan sát khi tiến hành thăm khám nội soi mũi. Tòan bộ cuốn dài từ trước ra sau khoảng 4,5cm. Bờ tự do được chia thành 3 phần: Đầu, thân và đuôi.
- Đầu cuốn nằm cách lỗ lê chừng 2-3mm. Chỗ bám của đầu cuốn vào thành ngòai cách sàn mũi khoảng 10mm.
- Đuôi tự do, cách lỗ vòi nhĩ khoảng 10mm, tạo nên một phần của lỗ mũi sau. Động mạch cuốn mũi dưới (nhanh của động mạch bướm – khẩu cái), đi từ thành ngòai vào đuôi cuốn. Trong thủ thuật cắt cuốn dưới, cần chú ý tránh động mạch này bằng cách thực hiện cắt chéo từ trước ra sau, từ trong ra ngoài (không cắt quá sát ra phía thành ngoài ở phần đuôi cuốn).
- Niêm mạc cuốn mũi dưới có nhiều mạch máu và tổ chức cương do đó rất dễ bị chảy máu trong quá trình làm thủ thuật hoặc phẫu thuật.
- Có thể bẻ gãy cuốn mũi dưới ra phía ngoài ở chỗ mỏm hàm để tạo lối vào ngách mũi giữa trong phẫu thuật nội soi.
Sau khi đặt thuốc co mạch, đưa ống nội doi dọc theo cuốn mũi dưới từ trước ra sau để quan sát.
2.1.2. Cuốn mũi giữa.
Nằm ở phía trên và hơi lùi ra sau so với cuốn mũi dưới. Bờ tự do của cuốn mũi giữa cũng được chia thành 3 phần: đầu, thân và đuôi.
Cuốn giữa dài trung bình 4cm, thông thường có chiều cong lõm về phía đường giữa, tạo nên một vùng phức hợp lỗ – ngách đủ rộng. Nhưng rất nhiều khi cuốn có các dạng khác nhau làm cho nó đóng vai trò quan trọng trong cơ chế sinh bệnh viêm xoang và trong kỹ thuật mổ NSCNMX, đó là trường hợp cuốn giữa cong ngược ra ngoài hoặc cuốn giữa quá thông khí (concha bullosa).
Ở phía trước đuôi cuốn 10-15, cao hơn bờ trên cuốn 5mm có lỗ bướm – khẩu cái và động mạch cùng tên đi từ trong xương ra. Đây là một trong những mốc giải phẫu quan trọng để tìm động mạch bướm – khẩu cái của phẫu thuật TESPAL (cầm máu động mạch bướm – khẩu cái trong chảy máu mũi sau bằng nội soi).
2.1.3. Cuốn mũi trên:
- Để quan sát cuốn mũi trên, nên dùng ống nội soi 300 đưa chéo lên trên và dần ra phía sau.
- Cuốn trên dài trung bình 17mm
- Lỗ xoang bướm nằm ở phần trên ngách bướm – sàng, phía trong đuôi cuốn trên vài mm, có thể thăm dò được bằng một que thăm thẳng đầu tù.
2.2. Các ngách mũi.
2.2.1. Ngách dưới mũi:
- Nằm giữa cuốn mũi dưới và thành ngòai hốc mũi.
- Thăm khám ngách mũi dưới bằng ống nội soi được thực hiện từ trước ra sau, có thể thấy lỗ của ống lệ – tỵ nằm ở góc trên ngách mũi.
- Phần sau – trên của ngách mũi, cách tiểu trụ 15mm, tương ứng với mỏm hàm của xuơng cuốn mũi dưới là nơi chọc vào xoang hàm.
2.2.2. Ngách mũi giữa:
Là vùng giải phẫu quan trọng nhất trong phẫu thuật NSCNMX. Ngách mũi giữa giới hạn bởi cuốn giữa và thành ngoài hốc mũi. Ngách này có thể rộng hẹp khác nhau tùy theo từng cá thể.
Mức độ thông thoáng của ngách mũi giữa, đặc biệt là vùng phức hợp lỗ – ngách không những đóng vai trò quan trọng trong sinh lý bệnh của viêm xoang mà còn cả trong phẫu thuật NSCNMX. Có 3 yếu tố thường ảnh hưởng đến độ thông thoáng này, cần được đánh giá kỹ khi nội soi mũi.
- Vách ngăn: Có thể bị lệch vẹo hẳn sang một bên hình mái vòm. Gây cản trợ động tác nội soi mũi. Nhưng nghiêm trọng hơn, nó chèn ép và đẩy cuốn mũi giữa về phía thành ngoài hốc mũi, làm cho phức hợp lỗ – ngách bị hẹp hoặc bít tắc.
- Cuốn mũi giữa: Các dạng cuốn mũi bất thường như cong ngược ra ngoài, quá thông khí (concha bullosa), phì đại quá mức…
- Niêm mạc vùng ngách mũi giữa cũng có thể thoái hóa và gây cản trở dẫn lưu như trường hợp niêm mạc mỏm móc thóai hóa thành gờ Kauffmann. Dưới hình ảnh nội soi, đôi khi có thể nhầm gờ này là cuốn giữa. Thành ngoài ngách mũi giữa có 3 mốc giải phẫu chính, khi thăm khám bằng nội soi, xuất hiện lần lựơt như sau:
- Gờ ống lệ: Là một gờ phồng từ thành ngoài mũi theo chiều trên – dưới, nằm ngay trước đầu cuốn giữa, do ống lệ – tỵ đo trong thành ngoài hốc mũi tạo nên. Dưới nội soi có thể thấy gờ này đi ở phía trước, cách mỏm móc khoảng 3-5mm. Do đó, trong phẫu thuật ngách mũi giữa, sau khi đã lấy mỏm móc thì nên mở rộng lỗ xoang hàm về phía sau hơn là ra trước để tránh làm tổn thương ống lệ – tỵ.
- Bóng sàng: Nằm ở phía sau mỏm móc, lồi ra như một phần hình cầu. Thành trước bóng sàng thẳng đứng theo mặt phẳng trán. Trong điều trị bệnh lỳ viêm thị thần kinh hậu nhãn cầu do viêm xoang bằng phẫu thuật nội soi, có thể phá vỡ thành này, đi qua bóng sàng vào thẳng xoang sàng sau.
- Cực trên bóng sàng là vùng phễu sàng, được Terrier mô tả nh là nơi hội tụ đường dẫn lưu của các nhóm xoang thuộc hệ thống sàng trước. Muốn quan sát được vùng này phải dùng ống nội soi 700.
Phức hợp lỗ – ngách:
Là phần trước của ngách mũi giữa, giới hạn bởi các xoang sàng trước, cuốn giữa và mỏm móc (còn gọi là phức hợp ngách giữa – sàng trước), gồm chủ yếu là ngách trán – sàng và bán nguyệt, có lỗ thông của các xoang hàm trên, xoang trán và các xoang sàng trước.
Đây có thể coi là vùng ngã tư thông thương của các xoang vào hốc mũi, bất kỳ một cản trở nào ở vùng này đều có thể gây tắc nghẽn sự dẫn lưu này và dẫn đến viêm xoang.
Do tầm quan trọng của nó mà Naumann (Amsterdam -1965) đã đề nghị đặt tên là phức hợp lỗ – ngách (Ostiomeatal Complex). Đây là vùng giải phẫu đóng vai trò rất quan trọng trong cơ chế sinh bệnh viêm xoang và trong nguyên lý của phẫu thuật NSCNMX.
2.2.3. Ngách mũi trên:
Thành trong của ngách mũi tạo nên bởi cuốn trên. Cuốn này đồng thời là thành ngoài của ngách bướm – sàng. Ở ngách mũi trên có lỗ đổ vào của các xoang sàng sau. Ngách mũi trên có thể quan sát được bằng ống nội soi 300.
2.2.4. Khe khứu:
Là một khe hẹp nằm giữa phần cao của vách ngăn và phần trên chân bám của cuốn mũi giữa. Niêm mạc ở đây mỏng và nhạt màu, thậm chí đôi khi có màu trắng nhạt, vàng hoặc xám nâu. Đây là khu khứu giác, nơi tận cùng của các nhánh dây thần kinh khứu giác. Có thể quan sát khe khứu bằng ống nội soi 300.
Nguồn: Bệnh viện 103