Ghép giác mạc xuyên với mảnh ghép lấy từ bệnh nhân chết não - bệnh viện 103
Quy trình thu nhận và ghép giác mạc
1. Thu nhận giác mạc từ người cho chết não
Bệnh nhân T.L.L., 33 tuổi, nam giới, số bệnh án 150/2012 (B11- Bệnh viện 103), chẩn đoán “Chết não/ chấn thương sọ não, máu tụ ngoài màng cứng vùng thái dương trán phải, máu tụ dưới màng cứng vùng thái dương phải, vỡ xượng sọ phức tạp vùng thái dương phải do ngã cao ngày thứ 3”.
Bệnh nhân được thu nhận giác mạc hai mắt sau khi được chẩn đoán chết não 4 tiếng và được sự đồng ý của gia đình. Quá trình phẫu thuật lấy giác mạc được tiến hành tại phòng mổ Bệnh viện 103 do bác sỹ khoa Mắt và kỹ thuật viên ngân hàng Mắt – Bệnh viện Mắt Trung ương thực hiện với dụng cụ chuyên dụng. Việc bộc lộ nhãn cầu tương đối khó khăn do bệnh nhân bị chấn thương vùng đầu mặt, tụ máu hốc mắt và sưng nề mi mắt, tuy nhiên phẫu thuật không có biến chứng nào xảy ra.
Giác mạc được vận chuyển và đưa vào tủ bảo quản sau 2 tiếng tính từ khi lấy. Đánh giá giác mạc sau 11 tiếng từ khi bảo quản. Về đại thể 2 giác mạc đều phù nhẹ, không có trợt biểu mô, phần giác mạc trong có đường kính 8,5mm. Giác mạc mắt phải có mật độ tế bào nội mô là 2846 tế bào/mm2, mắt trái là 2649 tế bào/mm2. Cả hai giác mạc đề được bảo quản và ghép sau 1 tuần tính từ thời điểm thu nhận.
2. Ghép giác mạc xuyên
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, cố định nhãn cầu bằng chỉ cơ trực trên, dưới và vòng củng mạc
Chuẩn bị nền ghép: dùng compa đo và đánh dấu tổn thương trên giác mạc, dùng khoan giác mạc có kích thước định sẵn (theo tổn thương đo được) khoan 3/4 chiều dày giác mạc, chọc mở tiền phòng ở đường khoan, bơm chất nhày vào tiền phòng, rồi dùng kéo cắt theo đường khoan để lấy bỏ giác mạc bệnh lý.
Chuẩn bị mảnh ghép: đặt mảnh ghép giác mạc người hiến lên thớt silicon, với mặt nội mô quay lên trên, dùng khoan có kích thước lớn hơn khoan tạo nền ghép 0,5 mm, khoan xuyên thủng để lấy mảnh ghép.
Khâu mảnh ghép vào nền ghép: đặt mảnh ghép vào nền ghép, khâu bằng chỉ dafilon 10-0 mũi rời (16 mũi). Bơm dung dịch Ringer lactat để tái tạo tiền phòng.
Tiêm cạnh nhãn cầu Gentamycin 40mg (1ml) và Dexamethazol 4mg (1ml)
Ca bệnh ghép giác mạc xuyên
Bệnh nhân P.T.B., 45 tuổi, nữ giới, số bệnh án 112 (B4 – Bệnh viện 103)
Chẩn đoán: hai mắt loạn dưỡng giác mạc di truyền (loạn dưỡng dạng đốm)
Bệnh sử: Bệnh nhân nhìn mờ hai mắt từ lâu, khoảng 30 năm nay. Nhìn mờ tăng dần thỉnh thoảng có kèm theo mắt cộm, vướng, chảy nước mắt. Khoảng 10 năm nay hai mắt mờ nhiều ảnh hưởng đến sinh hoạt đi lại của bệnh nhân
Tiền sử: gia đình bệnh nhân có 12 anh chị em, có 4 chị em và 1 anh mắc bệnh tương tự. Các anh chị em còn lại đã được khám và không có dấu hiệu bất thường
Khám: thị lực mắt phải ĐNT 1m, mắt trái ĐNT 1,5m, kính lỗ không tăng thị lực.
Cả 2 mắt có những những tổn thương đục màu trắng đậm hơn, kích thước không đều nhau trên nền đục nhu mô (mắt phải nhiều hơn mắt trái). Các tổn thương này tập trung nhiều hơn ở trung tâm và thưa hơn ở ngoại vi. Bề mặt giác mạc trung tâm hơi sần sùi, không bắt màu fluorescein. Không có mạch máu xâm nhập vào giác mạc.
Các chi tiết khác của bán phần trước bình thường, bán phần sau không soi rõ do đục giác mạc. Siêu âm dịch kính trong, không có bong võng mạc
Bệnh nhân được phẫu thuật ghép giác mạc xuyên với đường kính mảnh ghép 8mm (mảnh ghép lấy từ giác mạc mắt trái). Phẫu thuật diễn ra thuận lợi, không có tai biến, biến chứng trong phẫu thuật. Bệnh nhân được khám thường xuyên hàng ngày trong thời gian nằm viện, và sau ghép 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng (sau khi ra viện). Thuốc sau mổ gồm kháng sinh Zinnat (Cefuroxime) 0,25 uống 2 viên/ngày trong 7 ngày, giỏ mắt Vigamox (Moxifoxacin) 0,5% 4 lần/ngày, Dicortineff (Neomycin, Gramicidin, Hydrocortisone) 6 lần/ngày.
Sau phẫu thuật giác ghép biểu mô hoá hoàn toàn, tuy nhiên phù nhiều, nhăn màng Descemet, nhưng tiền phòng sâu, sạch, không có biểu hiện viêm, thải ghép, nhãn áp bình thường. Bệnh nhân được dùng thêm thuốc giỏ mắt muối 5% 6 lần/ngày. Tình trạng phù giác mạc giảm chậm, không có bọng biểu mô, mắt yên. Sau hai tháng, mảnh giác giác ghép vẫn còn phù đục nhẹ, nhăn màng Descemet nhưng tiền phòng sâu sạch, không có phản ứng viêm. Thị lực ra viện là ĐNT 4m, sau phẫu thuật 2 tháng là 2/10.
Nguồn: Bệnh viện 103
Bong võng mạc xảy ra khi võng mạc tách khỏi phía sau của mắt. Điều này dẫn đến mất thị lực một phần hoặc hoàn toàn, tùy thuộc vào mức độ bong ra của võng mạc.
Bước đầu tiên để giảm khô mắt mãn tính là hiểu rõ nguyên nhân gây ra vấn đề. Có thể khắc phục tình trạng khô mắt bằng cách dùng thuốc nhỏ mắt và thực hiện một số điều chỉnh đơn giản trong thói quen hàng ngày.