Các đáp ứng thích nghi của tế bào - bệnh viện 103
Thích nghi cấu trúc sinh lý ( physiological structural adaptation) là thay đổi cách phát triển bình thường của tế bào và thường kèm theo sự thay đổi sớm về cấu trúc của tế bào . Các thay đổi cấu trúc thích nghi bình thường được chia làm ba loại chính sau .
- Tế bào giảm hoạt động : dẫn đến giảm kích thước hoặc số lượng tế bào còn gọi teo đét ( atrophy ) thường do giảm đòi hỏi hay yêu cầu về chức năng của tổ chức hoặc giảm sự kích thích của các hormon .
- Tế bào tăng hoạt động : sẽ làm tăng kích thước hoặc số lượng tế bào được gọi là phì đại (hypertrophy) hay tăng sản (hyperplasia) thường do tăng đòi hỏi hay yêu cầu về chức năng của tổ chức hoặc tăng sự kích thích của các hormon .
- Thay đổi về hình thái của tế bào : thay đổi về sự biệt hoá của tế bào . Thường xẩy ra khi có sự thay đổi môi trường của tế bào dẫn đến thay đổi về cấu trúc tế bào , từ một tế bào này chuyển thành tế bào khác . Sự thay đổi hình thái đó gọi là dị sản ( metaplasia)
1. Teo đét ( atrophy ) .
- Là hiện tượng giảm kích thước của tế bào , tổ chức cơ quan hoặc toàn bộ cơ thể .
- Teo đét của một tạng hoặc tổ chức có thể do giảm về kích thước tế bào hoặc về số lượng té bào hợp thành tạng hay tổ chức đó hay do cả hai nguyên nhân .
1.1. Phân loại .
Teo đét có thể chia làm hai cách : theo đáp ứng của cơ thể ( teo đét sinh lý và teo đét bệnh lý ) và theo khu vực ( teo tại chỗ và teo toàn thể ).
+ Teo sinh lý : điển hình là teo ở tuổi già , thường là teo toàn bộ cơ thể . Teo ở tuổi già có thể do nhiều yếu tố , những thay đổi nội tiết làm teo một số cơ quan tổ chức như teo vú , teo não do neuron thần kinh chết không thể thay thế lam các cuộn não hẹp , khe cuộn não rộng ra , teo cơ , giảm sút canxi trong xương làm xương thưa mỏng dễ gãy .
Teo sinh lý còn có thể thấy trong teo tuyến ức , tuyến ức chỉ còn di tich khi đến tuổi trưởng thành ; teo buồng trứng , tử cung ở phụ nữ tuổi mãn kinh .
+ Teo bệnh lý : teo do thiếu dinh dưỡng sẽ đẫn đến teo toàn bộ cơ thể . Khi cơ thể có các tổn thương ở đường tiêu hoá ( viêm loét , khối u , bệnh lý gan mật …) hoặc do chán ăn , do nuôi dưỡng không đầy đủ cơ thể sẽ phải sử dụng vào phần dự trữ các chất glucid , lipid và protid là cho cơ thể sẽ suy kiệt .
Teo đét có thể ở một vùng nào đó , một cơ quan nào đó khi bị thiếu nuôi dưỡng làm cho các cơ quan thường nhỏ , như thận teo nhỏ khi bị xơ vữa động mạch . Teo cơ do tổn thương dây thần kinh , cơ không hoạt động sẽ teo đi . Các tuyến khi bị tắc thì các tế bào chế tiết liên quan đến ống đó cũng bị teo đi . Sự mất kích thích nội tiết của tuyến yên trong bệnh Simmond sẽ dẫn đến teo tuyến giáp , tuyến thượng thận , buồng trứng và một số tạng khác .
1.2 . Hình ảnh mô bệnh học của teo đét
- Các tạng thu nhỏ lại , màu thẫm hơn bình thường .
- Trong tế bào bào tương tế bào ít đi , trong bào tương xuất hiện các hạt sắc tố màu nâu gọi là sắc tố hao mòn ( lipofuchsine ) .
- Trong một số tế bào một só chất nguyên sinh biệt hoá như tơ cơ , tơ thần kinh , các ty thể bị mất .
- Teo đét là nguyên nhân làm giảm chức năng của tế bào và cơ quan . đánh giá mức độ giảm chức năng có thể xác định đựoc tình trạng teo đét của chúng như teo đét não ở người già thường làm cho họ có biểu hiện lú lẫn gặp trên 50% ở người già trên tuổi 85 .
2. Phì đại và tăng sản ( hypertrophy and hyperplasia )
Phì đại là sự tăng kích thước của tế bào dẫn đến tăng kích thước của tổ chức và cơ quan hoặc phì đại là sự tăng kích thước của tổ chức và cơ quan do sự to lên của từng tế bào còn tăng sản là sự tăng kích thước của tổ chức và cơ quan do tăng số lượng tế bào .
Phì đại và tăng sản thường cùng phối hợp với nhau . Phì đại đơn thuần chỉ xảy ra trong cơ và cơ vân xương là các cơ quan mà tế bào không thể phân chia được .
- Phì đại ở cơ tim thường là biểu hiện bệnh lý khi cơ tim tăng cường khối lượng công việc . Phì đại tâm thất trái của tim là một biến chứng của cao huyết áp . Sự tăng áp lực ở trong dòng máu làm tâm thất trái phải tăng sức co bóp làm các sợi cơ tim phải to lên . Cũng như vậy phì đại còn xảy ra khi hẹp lỗ van động mạch chủ đây là biến chứng của viêm nội tâm mạc nhiễm trùng .
- Tế bào cơ tim phì đại sẽ tăng lên về kích thước , trong tế bào sẽ nhiều các sợi cơ (myofilament ) hơn và sự co bóp của chúng sẽ hiệu quả hơn .
- Tế bào cơ vân xương phì đại thường do tập thể dục và đặc biệt là ở những vận động viên thể hình .
Một số tổn thương tăng sản ta không thể quan sát được nguyên nhân và có thể là biểu hiện giai đoạn sớm của khối u như tăng sản các polip ở đại tràng hay các ổ tăng sản ở trong gan . Một số dạng tăng sản nội mạc tử cung nếu như không điều trị chúng có thể tiến triển thành u .
3. Dị sản ( metaplasia) .
- Là một dạng đáp ứng tiêu biểu của tế bào với các kích thích bởi sự biến đổi từ loại tế bào này thành ra tế bào khác .
- Ví dụ các tế bào biểu mô trụ của niêm mạc phế quản khi bị kích thích bởi khói thuốc sẽ biến đổi thành biểu mô vảy hay còn gọi là biểu mô gai , biểu mô lát tầng ( stratified squamous epithelium ) .
- Hay như tế bào nguyên bào sợi biên thành xương và được gọi là dị sản sản xương (osseous metaplasia) , đôi khi nó còn thấy trong tế bào cơ vân xương và gọi là viêm cơ xương hoá .
- Dị sản là tổn thương có thể phục hồi nếu như dừng tác động của khói thuốc khi bỏ thuốc lá , biểu mô gai sẽ trở lại biểu mô trụ .
- Nếu như kích thích đó vẫn tồn tại ( vẫn còn hút thuốc ) dị sản gai sẽ có thể tiến triển tới loạn sản , trái ngược với sư sắp xếp lớp có trật tự của tế bào vẩy bình thường trong dị sản gai , loạn sản là mất sự sắp xếp lớp của tế bào và có sự biến đổi về nhân tế bào , nhân không điển hình .
- Loạn sản vẫn còn có thể hồi phục nếu như các kích thích dừng , nhưng trường hợp này ít và chúng thường tiến triển dến ung thư .
4. Tích tụ trong tế bào ( intracellular accumulations)
Tích tụ trong tế bào là tích tụ quá nhiều các sản phẩm chuyển hoá khác nhau hoặc là các chất ngoại sinh từ bên ngoài vào tế bào . Chúng được cho là có sự rối loạn chuyên hoá , ngăn cản sự bài tiết các sản phẩm chuyển hoá hoặc chế tiết bình thường của tế bào . Trong nhiều trường hợp cơ chế phức tạp bao gồm cả hai quá tải , không bài tiết / sự sử dụng không đúng mức (underexcretion / underutilization).
4.1.Bệnh bụi than ( Anthracosis- tích tụ bụi than đá )
Là hình ảnh điển hình về tích tụ các chất ngoại sinh , bệnh bụi than nặng gặp ở công nhân mỏ than , bụi than trong không khí vào trong phổi người công nhân . Bụi than còn có thể từ các ống khói , cho nên bất cứ sự ô nhiễm không khí nào cũng có thể là nguyên nhân gây ra bụi than .
4.2. Tích tụ sắc tố hemosiderin máu ( hemosiderosis )
Là các sắc tố màu vàng nâu có nguồn gốc từ máu ( hemosiderin trong tiếng Hy Lạp haima nghĩa là máu – blood , còn sideros nghĩa là sắt –iron ) . Hemosiderin thường từ hemoglobin của hồng cầu hoá giáng trong hemosiderin có nhiều sắt (iron) cho nên nó có màu vàng nâu .
Hemosiderin thường là hậu quả của chảy máu , hemosiderin hình thành trong các thực bào của hệ thống võng nội mô trong thời gian ngắn nhất là một ngày.
5. Sự già ( lão hoá )
- Lão hoá ( senescence), xuất phát từ senex trong tiếng Latin có nghĩa là “người già” hay “tuổi già” là trạng thái hay quá trình tạo nên tuổi tác già nua. Lão hóa là quá trình tất yếu diễn ra trong cơ thể con người.
- Điều không may mắn với chúng ta là các tế bào già sẽ không hồi phục , cho nên sự già không thể tránh khỏi và không thể ngăn ngừa được chúng .
- Tuy nhiên nếu thực hiện tích cực một số biện pháp, giảm tối thiểu các tác động bất lợi của môi trường đến cơ thể con người chúng ta có thể làm chậm được quá trình lão hóa.
- Sự già của các tế bào là các đáp ứng phức tạp (complex) của cơ thể với tác động của môi trường . Quá trình già cho đên nay vẫn còn chưa được hiểu biết đầy đủ . Có nhiều thuyết về sự già nhưng không có thuyết nào giải thích hoàn toàn cơ bản về hiện tượng sinh học phức tạp này .
6. Chết
Chết thông thường được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay nói cách khác chết là bước tận cùng không thể tránh khỏi của đời sống sinh vật.
Trong y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống. Môn khoa học nghiên cứu về cái chết đã trở thành ngành riêng gọi là ” tử vong học – thanatology “ .
Dưới góc độ sinh học, cái chết có thể xảy ra cho toàn bộ cơ thể hoặc chỉ một vài thành phần của cơ thể. Thí dụ, một số tế bào riêng lẻ hoặc thậm chí một vài cơ quan có thể chết, trong khi cơ thể, với tư cách là một tổng thể, vẫn tiếp tục sống. Trong cơ thể sinh vật, rất nhiều tế bào có tuổi thọ rất ngắn so với đời sống của cơ thể, chúng chết đi và được thay thế bởi các tế bào mới – đó là quá trình đổi mới thường xuyên các tế bào, một đặc điểm sinh lý của các cơ thể đa bào.
Tất cả mọi tế bào trong cơ thể đều có thời gian sống nhất định và cuối cùng là chết . Một số tế bào có thể được thay thế từ tế bào thân của tổ chức , còn số khác thì không thể thay được như tế bào tim chẳng hạn , tuy nhiên nếu như tất cả tế bào tim chết , người ta có thể ghép tim thay thế và kéo dài cuộc sống
Tóc và móng có vẻ mọc dài thêm sau khi chết, thật ra, khi xác chết bị mất nước bắt đầu “khô đi”, mô mềm co rút lại làm lộ ra phần tóc và móng chưa mọc . Thời cổ đại, chuyện này khiến người ta xác định nhầm lẫn thời điểm chết thật sự , và thêu dệt thêm vào đó để thành các truyền thuyết về ma cà rồng.
Xác định chết .
Xác định chính xác thời điểm chết có ý nghĩa quan trọng vì nhiều lý do. Hiện nay nó đặc biệt quan trọng trong trường hợp hiến cơ quan, bởi lẽ tạng đem ghép phải được lấy ra khỏi cơ thể người chết càng sớm càng tốt.
Hoạt động não là điều kiện cần của sự tồn tại của một cá nhân về mặt pháp lý, nó cũng đồng thời là điều kiện đủ của sự sống .
“Một khi sự chết não đã được khẳng định, việc ngưng sử dụng các thiết bị hỗ trợ sự sống không cấu thành một tội dân sự hay hình sự”. (Dority, tại tòa án tối cao hạt San Bernardino, 193 Cal.Rptr. 288, 291 (1983)).
Ngay cả khi dùng điện não, việc xác định cái chết cũng khó khăn. EEG có thể ghi nhận một tín hiệu giả trong khi não đã thực sự ngưng hoạt động, hay ngược lại, não còn sống, nhưng hoạt động điện của nó thấp hơn ngưỡng ghi nhận của máy.
Vì lý do này, các bệnh viện thường thiết lập một quy trình để xác nhận cái chết trong đó bao gồm EEG ghi nhận trong những khoảng thời gian khác nhau.
Tiêu chuẩn để tuyên bố một người là chết thường được quy định bởi các ủy ban cấp nhà nước, tùy từng nước. EEG không là một xét nghiệm đại trà, trên thực tế, người ta hay dựa vào các triệu chứng như mất ý thức, ngưng thở, mất mạch, đồng tử giãn và không phản xạ với ánh sáng, điện tâm đồ (ECG) thẳng …
Một người được coi là chắc chắn chết khi có các dấu hiệu sau .
Giai đoạn sớm sau khi chết 15–120 phút tùy nhiều yếu tố, xác trở nên mát lạnh (mát lạnh tử thi – algor mortis), trở nên tái nhạt (tái nhạt tử thi – pallor mortis), các cơ vòng giãn ra, dẫn đến việc bài xuất nước tiểu, phân, những gì chứa trong dạ dày cũng trôi ra ngoài nếu xác bị di chuyển. Máu dồn xuống tạo thành các hồ ở phần thấp của xác (theo trọng lực) gọi là vết bầm tử thi (livor mortis) trong vòng 30 phút máu bắt đầu đông lại. Các cơ co lại tạo nên co cứng tử thi (rigor mortis) với đỉnh điểm là 12 giờ sau khi chết và kết thúc 24- 36 giờ sau khi hình thành , tùy vào nhiệt độ môi trường. Trong vòng một ngày, bắt đầu có các dấu hiệu phân hủy (phân rã) , cả do cơ chế tự hủy lẫn do sự tấn công của vi sinh vật, nấm, côn trùng, thú vật v.v. Bên trong cơ thể, các cấu trúc bắt đầu sụp đổ, da mất sự liên kết với các mô bên dưới, hoạt động của vi khuẩn sẽ sinh hơi và khiến xác sưng, phình ra.
Không có một yếu tố xác định cụ thể cho tốc độ phân hủy sau khi chết; một xác chết có thể chỉ còn bộ xương sau vài ngày hoặc còn gần như nguyên vẹn sau hàng chục năm .
Nguồn: bệnh viện 103
Rất nhiều thai phụ băn khoăn rằng, không biết sử dụng thuốc trị bệnh về tuyến giáp trong thời gian đang mang thai có an toàn không? Để giải đáp thắc mắc trên, mời các bạn cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây!
Hội chứng ruột kích thích (irritable bowel syndrome – IBS) là một rối loạn tiêu hoá gây ra các triệu chứng như đau bụng, đầy hơi, chướng bụng, tiêu chảy và táo bón. Nguyên nhân chính xác gây ra hội chứng này vẫn chưa được xác định nhưng các tác nhân kích hoạt triệu chứng gồm có mốt số loại thực phẩm, đồ uống và stress.