Viêm kết mạc do vi khuẩn - bệnh viện 103
1. Các viêm kết mạc do các loại vi khuẩn thông thường
Gặp khá phổ biến và việc điều trị thường không khó khăn lắm. Các loại vi khuẩn thường gặp nhất là cầu khuẩn Gram dương (tụ cầu, liên cầu…) và trực khuẩn Gram âm (như Moraxella lacunata…)
1.1. Bệnh cảnh lâm sàng
- Bệnh diễn biến cấp tính với các triệu chứng cộm mắt như có sạn, bỏng rát và nhiều tiết tố làm mắt rất khó mở vào buổi sáng khi ngủ dậy. Bệnh thường xuất hiện ban đầu ở một mắt, sau đó nhanh chóng lan sang mắt thứ 2 do tiết tố lây sang.
- Về thực thể, mi mắt sưng nề và đóng vẩy khô do tiết tố bám. Chất xuất tiết ban đầu có dạng nước loãng giống như tiết tố trong các viêm do virus, sau chuyển sang dạng mủ nhày.
- Kết mạc cương tụ đỏ rõ nhất ở cùng đồ và nhạt dần khi ra đến vùng rìa. Trường hợp nặng có thể xuất hiện màng giả trên kết mạc. Giác mạc ít khi bị thâm nhiễm, mặc dù trong những trường hợp nặng có thể thấy chấm nông giác mạc và thẩm lậu vùng rìa.
1.2. Điều trị
Chăm sóc: việc đầu tiên phải làm trước khi dùng thuốc tra mắt là dội rửa mắt thường xuyên để loại bỏ tối đa chất xuất tiết và vi khuẩn chứa trong túi kết mạc.
Thuốc: chủ yếu là kháng sinh tra tại mắt (thuốc nước tra ban ngày, thuốc mỡ tra buổi tối trước khi ngủ), thời gian điều trị thường kéo dài 7-10 ngày
- Chloramphenicol 0,4%: trong những trường hợp bệnh nhẹ mới bắt đầu, tra liên tục 1-2 giờ/ 1 lần kết hợp với lau rửa tiết tố thường xuyên cho kết quả tốt.
- Các kháng sinh khác: tobramicin, neomicin, ciprofloxacin, ofloxacin, gentamycin, cebemyxine (neomycin + polymyxin B). Nhóm quinolol thường được sử dụng trong những trường hợp bệnh diễn biến nặng các thuốc thông thường không có tác dụng.
- Toàn thân thường chỉ cần các vitamin nâng cao thể trạng mà không cần tới kháng sinh uống hoặc tiêm.
2. Viêm kết mạc do lậu ở người lớn
Lậu là bệnh hoa liễu gây ra bởi song cầu khuẩn Gram âm Neisseria gonorrhoeae. Bệnh có tính chất tối cấp, lây lan mạnh chủ yếu qua đường tiếp xúc với tiết tố người bệnh hoặc từ bộ phận sinh dục ở người bệnh.
2.1. Triệu chứng lâm sàng:
- Sau thời kỳ ủ bệnh ngắn, mắt bệnh nhân sưng nề, rất nhiều tiết tố vàng bẩn, có bọt và loãng nước trào ra khi cố gắng vành mi. Kết mạc cương tụ với những nhú gai viêm li ti làm kết mạc đỏ mịn như nhung.
- Giác mạc bị tổn thương trong những trường hợp nặng, ban đầu với loét cạnh rìa, sau lan vào trung tâm giác mạc gây hoại tử giác mạc và viêm nội nhãn. Chẩn đoán chủ yếu phải dựa vào xét nghiệm soi trực tiếp chất tiết kết mạc thấy có song cầu hình hạt cà phê trong và ngoài tế bào .
2.2. Điều trị:
Cần khai thác tiền sử bệnh hoa liễu ở bệnh nhân và người thân có quan hệ gần gũi, để có biện pháp phòng ngừa lây nhiễm tiếp tục và điều trị tận gốc dứt điểm.
- Thuốc tại mắt: tra những kháng sinh nhạy cảm với lậu cầu khuẩn như nhóm quinolol, cephalosporin… Trong giai đoạn đầu cần tra liên tục mỗi 15 phút/1 lần, những ngày sau tra 30 phút – 1 giờ/1 lần. Khi bệnh gần ổn định giảm xuống tra 3 giờ/1 lần.
- Toàn thân: tiêm tĩnh mạch cefoxitin 1g/ngày hoặc cefotaxim 0,5g x 4 lần/ ngày. Trường hợp chỉ có viêm kết mạc chỉ cần điều trị 1 ngày là đủ, nhưng nếu có viêm giác mạc thì phải điều trị 3-5 ngày. Trường hợp vi khuẩn kháng lại nhóm penicilline thì có thể dùng Spectinomycin 2g tiêm tĩnh mạch.
3. Viêm kết mạc do lậu ở trẻ sơ sinh
Bệnh có tính chất tối cấp tính, xuất hiện ngay sau khi sinh vài ngày do trẻ bị nhiễm khuẩn từ đường sinh dục của mẹ khi sinh qua đường dưới. Trong vòng 1 tuần sau đẻ, mắt trẻ bị sưng húp, mi và kết mạc nề mọng và dử mắt loãng, vàng bẩn dính chặt hai mi. Khi cố gắng vành mi sẽ thấy mủ loãng trào ra qua khe mi, nhiều khi bắn vọt ra.
Lúc đầu giác mạc thường còn trong, sau đó xuất hiện thẩm lậu nhu mô nông, trợt và loét giác mạc. Nếu không được điều trị kịp thời, loét sẽ nhanh chóng lan rộng gây hoại tử toàn bộ giác mạc và nội nhãn (Hình 8).
Điều trị:
- Việc chăm sóc và thuốc men giống như với viêm kết mạc do lậu ở người lớn, tuy nhiên cần lưu ý tới đặc điểm mỏng mảnh, nhậy cảm của da và kết mạc ở trẻ sơ sinh khi lau và vệ sinh mắt.
- Đặc biệt ở trẻ nhỏ, khả năng hấp thụ thuốc khá cao nên dễ gặp tác dụng phụ của thuốc, do vậy cần thận trọng khi chỉ định dùng thuốc và tính toán liều lượng thuốc hợp lý cho trẻ em.
Nguồn: Bệnh viện 103