Siêu âm Doppler mạch máu tuyến giáp
1. Siêu âm tuyến giáp là gì?
Siêu âm tuyến giáp tạo ra hình ảnh của tuyến giáp và các cấu trúc lân cận ở cổ. Tuyến giáp nằm ở phía trước cổ ngay trên xương đòn và có hình dạng giống con bướm, với một thùy ở hai bên cổ được nối với nhau bằng một dải mô hẹp. Đây là một trong chín tuyến nội tiết nằm trên khắp cơ thể có chức năng tạo và gửi các hormone tuyến giáp vào máu.
Siêu âm tuyến giáp cũng tương tự như siêu âm tại các bộ phận cơ thể khác, hoàn toàn an toàn và không gây đau đớn gì, giúp bác sĩ chẩn đoán và điều trị các bệnh lý. Cơ chế hoạt động của siêu âm tuyến giáp là tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể bằng cách sử dụng sóng âm thanh thông qua một đầu dò nhỏ đặt trên lớp gel bôi trực tiếp trên da. Sóng âm tần số cao truyền từ đầu dò qua gel vào cơ thể và đầu dò thu thập các âm thanh dội lại. Máy tính sử dụng những tín hiệu này để tạo ra hình ảnh.
Qua đó, siêu âm tuyến giáp cũng không sử dụng năng lượng bức xạ như được sử dụng trong chụp X-quang nên không có nguy cơ phơi nhiễm. Đồng thời, vì hình ảnh được ghi nhận trong thời gian thực, siêu âm có thể hiển thị cấu trúc và chuyển động, như siêu âm doppler mạch máu tuyến giáp với hình ảnh của máu chảy qua các mạch máu.
Trong dân số chung, có khoảng 5 đến 10% người lớn là có nhân giáp mà bác sĩ có thể xác định được khi khám. Tuy nhiên, khi có công cụ siêu âm tuyến giáp, hình ảnh nhân giáp trên siêu âm có độ nhạy cao hơn nên sẽ cho thấy nhiều nốt không sờ thấy được. Phần lớn các trường hợp phát hiện thấy nhân giáp trên siêu âm là lành tính, không gây nguy hiểm cho sức khỏe. Tuy nhiên, có một phần nhỏ trong số này là các khối u thực sự của tuyến giáp và có thể cần chẩn đoán hoặc điều trị thêm.
2. Khi nào cần phải thực hiện siêu âm tuyến giáp?
Siêu âm tuyến giáp thường được chỉ định khi:
- Xác định xem một khối u ở cổ là phát sinh từ tuyến giáp hoặc một cấu trúc lân cận
- Phân tích sự xuất hiện của các nhân tuyến giáp và xác định là nhân lành tính hoặc cần phải sinh thiết
- Định hướng sinh thiết, chọc hút bằng kim nhỏ khi cần xác định bản chất nhân giáp
- Tìm thêm các nhân giáp trên siêu âm ở những bệnh nhân đã có một hoặc nhiều nhân qua thăm khám
- Theo dõi sự tiến triển của nhân giáp trên siêu âm theo thời gian
3. Cách thực hiện siêu âm tuyến giáp như thế nào?
Khi đi thực hiện siêu âm tuyến giáp, như siêu âm cho các vùng cơ thể khác, người bệnh được khuyến khích mặc quần áo rộng rãi, thoải mái để dễ bộc lộ. Đồng thời, bệnh nhân cũng có thể cần phải cởi bỏ tất cả quần áo và đồ trang sức trong khu vực cổ để dễ kiểm tra toàn bộ bướu giáp.
Ngoài những điều nên trên, người bệnh không cần chuẩn bị khác, vẫn có thể ăn uống, uống thuốc và sinh hoạt như bình thường trước khi đến siêu âm tuyến giáp.
Tuy nhiên, vì siêu âm rất nhạy cảm với những chuyển động, đòi hỏi người bệnh phải nằm yên, nếu trẻ nhỏ hiếu động hoặc dễ quấy khóc sẽ có thể kéo dài quá trình thực hiện. Vì vậy, cha mẹ cần tìm cách trấn an trẻ hay có thể sử dụng một số cách thức giúp trẻ phân tâm và khiến thời gian thực hiện trôi qua nhanh chóng hơn.
Với kỹ thuật siêu âm tuyến giáp, tư thế người bệnh là nằm ngửa cổ trên một chiếc gối sau vai, đôi khi cần phải nghiêng cổ sang hai bên theo y lệnh, vừa để cải thiện chất lượng hình ảnh, vừa giúp ghi nhận hình ảnh tuyến giáp được toàn diện. Sau khi bộc lộ được vùng cổ, bác sĩ siêu âm sẽ bôi một loại gel và đặt đầu dò, di chuyển qua lại trên khu vực quan tâm cho đến khi thu được hình ảnh mong muốn.
Sau khi đánh giá đã thu nhận đầy đủ hình ảnh về cấu trúc nhu mô tuyến giáp, mạch máu tuyến giáp cũng như các vùng xung quanh, lớp gel này sẽ được bôi sạch khỏi da và người bệnh có thể ngồi dậy ra về, sinh hoạt như bình thường.
4. Hình ảnh tuyến giáp bình thường trên siêu âm tuyến giáp
Tuyến giáp bình thường bao gồm hai thùy và một eo nối ở giữa hai thùy. Kích thước, hình dạng và khối lượng tuyến giáp thay đổi theo tuổi và giới tính, bình thường là 40-60 mm theo chiều dọc và đường kính trước sau là 13-18mm ở nhóm dân số trưởng thành. Thể tích tuyến giáp bình thường là 10-15ml đối với nữ và 12-18ml đối với nam.
Tuyến giáp có mối quan hệ với các cấu trúc xung quanh là cơ ức đòn chũm và cơ cổ ở phía trước; khí quản, thực quản và cơ dọc giữa ở phía sau; các động mạch cảnh chung và tĩnh mạch cảnh nằm hai bên.
Siêu âm Doppler mạch máu tuyến giáp cũng rất hữu ích để đánh giá tình trạng mạch máu của tuyến giáp và các vùng lân cận. Tuyến giáp là một cấu trúc giàu sự chi phối mạch máu, được cung cấp bởi các động mạch giáp trên và giáp dưới. Phổ vận tốc bình thường trong các động mạch tuyến giáp nằm trong khoảng 15-30cm/giây nhưng có thể tăng trong một số bệnh lý nhất định (như bệnh Graves), lên trên 100cm/giây.
5. Hình ảnh các bệnh lý tuyến giáp trên siêu âm tuyến giáp
5.1 Dị tật bẩm sinh trong phát triển của tuyến giáp
Nguyên sinh tuyến giáp phát triển từ vị trí trung gian ở tầng của hầu nguyên thủy trong tuần thứ 4 của thai kỳ, đi xuống qua phần đường giữa trước của cổ để đến vị trí cuối cùng bên dưới sụn tuyến giáp vào tuần thứ 7.
Đôi khi, phần còn lại của mô tuyến giáp có thể tồn tại dọc theo đường di chuyển, làm phát sinh thêm một thùy tuyến giáp quan sát thấy trên siêu âm. Mặt khác, sự tồn tại của ống tuyến giáp bẩm sinh sẽ dẫn đến hình thành u nang tuyến giáp như một tổn thương giảm âm được xác định rõ với tăng cường sóng âm từ phía sau. Ngược lại, nếu quan sát thấy cấu trúc này tăng âm thì có thể u nang bị xuất huyết hoặc nhiễm trùng.
5.2 Nhân giáp
Tỷ lệ mắc rất cao, từ 50% đến 70%, và sự phát triển của các nhân giáp có mối tương quan trực tiếp với tuổi của bệnh nhân và được coi là một phần của quá trình trưởng thành bình thường của tuyến giáp.
Nguyên nhân phổ biến nhất của nhân giáp lành tính là tăng sản nốt, với nốt đơn độc hay đa nhân. Lúc này, độ phản âm đồng nhất sẽ là tiêu chí đáng tin cậy nhất để xác định tính lành tính của nhân giáp. Các tiêu chí lành tính khác là kích thước nhân trên 1cm, có quầng giảm âm xung quanh như bao xơ hoặc tăng âm do vôi hóa.
5.3 Ung thư giáp
Về mặt mô học, các khối u ác tính của tuyến giáp được phân loại là ung thư biểu mô nhú, ung thư biểu mô nang, ung thư biểu mô tủy, ung thư biểu mô không sản, ung thư hạch và di căn. Độ nhạy của siêu âm tuyến giáp để chẩn đoán một tổn thương ác tính là 83,3%.
Các đặc điểm của siêu âm tuyến giáp giúp hướng đến bệnh lý ác tính bao gồm sự hiện diện của vi vôi hóa (<2mm), xâm lấn tại chỗ, di căn hạch, giảm cường độ tia rõ rệt, rìa không đều, mật độ đặc, không có quầng giảm âm xung quanh nốt và có tính hiệu tăng sinh mạch máu trong sang thương.
Đối với các ổ ung thư nguyên phát gây di căn đến tuyến giáp là không thường xuyên, thường gặp là với u hắc tố ác tính, ung thư biểu mô vú và ung thư biểu mô tế bào thận. Dưới siêu âm, nốt di căn giáp biểu hiện như một khối đơn độc hoặc nhiều khối đồng nhất giảm âm mà không có vôi hóa. Tuy nhiên, công cụ xác chẩn cuối cùng nên là sinh thiết.
5.4 Các bệnh tuyến giáp lan tỏa
Các tình trạng phổ biến biểu hiện như phì đại lan tỏa của tuyến giáp bao gồm bướu cổ đa nhân, viêm tuyến giáp Hashimoto, viêm tuyến giáp bán cấp de-Quervain và bệnh Graves. Đặc điểm siêu âm của các bệnh lý này có thể tương tự nhau, dễ gây nhầm lẫn nhưng chúng có bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng khác nhau. Do đó, trong từng bệnh cảnh, người bệnh cần được nhận định dựa trên sự tổng hợp của nhiều dữ kiện, bằng chứng khác nhau. Hình ảnh siêu âm tuyến giáp của các bệnh lý này như sau:
- Bướu cổ đa nhân: Đây là nguyên nhân phổ biến nhất của sự phì đại không đối xứng lan tỏa của tuyến giáp. Chẩn đoán siêu âm dựa trên việc tìm thấy nhiều nhân trong nhu mô tuyến giáp đã mở rộng lan tỏa với bản chất tăng tín hiệu echo khi phóng to.
- Bệnh Graves: Đây là một bệnh tự miễn tuyến giáp đặc trưng bởi nhiễm độc giáp. Trên siêu âm, kích thước tuyến giáp sẽ to ra, gấp 2-3 lần kích thước bình thường, giảm âm và không đồng nhất. Hình ảnh Doppler mạch máu tuyến giáp cho thấy dấu hiệu tăng mạch rõ rệt với dòng chảy trong tuyến giáp tăng vận tốc cả trong tâm thu và tâm trương. Trái ngược với bệnh viêm tuyến giáp Hashimoto, hình ảnh tuyến giáp của bệnh Graves có thể trở lại trạng thái bình thường khi bệnh đã kiểm soát ổn.
- Viêm tuyến giáp Hashimoto: Đây cũng có bệnh sinh là do rối loạn tự miễn dịch, như kết cục là dẫn đến sự phá hủy tuyến giáp và gây suy giáp. Siêu âm tuyến giáp thấy kích thước tuyến giáp to lan tỏa, nhu mô thô, không đồng nhất và giảm âm là biểu hiện thường gặp nhất. Khi có sự hiện diện của nhiều nốt nhỏ giảm âm rời rạc, kích thước 1-6 mm, sẽ gợi ý nhiều đến viêm tuyến giáp mãn tính. Các vách ngăn dạng sợi hồi âm tốt có thể tạo ra hình dạng giả nhu mô. Trên siêu âm Doppler mạch máu tuyến giáp cũng có thể cho thấy sự tăng sinh mạch của nhu mô tuyến giáp từ nhẹ đến rõ rệt nên đặc điểm này khó phân biệt với bệnh Graves. Tuy nhiên, các hình ảnh siêu âm tuyến giáp bất thường trong bệnh viêm tuyến giáp của Hashimoto sẽ không bao giờ cải thiện và không thay đổi trong suốt quãng đời còn lại của bệnh nhân.
- Viêm tuyến giáp của De Quervain: Hình ảnh siêu âm tuyến giáp cho thấy các vùng giảm âm khu trú đặc trưng giống như bản đồ và kèm theo sự tăng kích thước ở một hoặc cả hai thùy tuyến giáp. Ngoài ra, các hạch bạch huyết xếp dạng chuỗi, sưng to cũng được quan sát thấy ở phần lớn bệnh nhân. Siêu âm Doppler màu cho thấy lưu lượng máu giảm hoặc không có trong các vùng nhu mô giảm âm. Tuy nhiên, tuyến giáp có thể phục hồi các đặc điểm này trên siêu âm một cách hoàn toàn trong vài tuần đến vài tháng.
- Viêm tuyến giáp cấp tính: Bệnh lý này hiếm gặp và xảy ra do nhiễm trùng cấp tính. Trên siêu âm tuyến giáp, thùy bị ảnh hưởng sẽ xuất hiện không đồng nhất và giảm âm; cũng có thể thấy áp xe và hình thành u nang.
- Viêm tuyến giáp xơ mãn tính hay viêm tuyến giáp xơ xâm lấn: Đây là loại bệnh tuyến giáp kiểu viêm hiếm gặp nhất. Tuyến giáp dần bị thay thế bởi các mô liên kết dạng sợi và trở nên cực kỳ cứng. Trên siêu âm, viêm tuyến giáp loại này có thể biểu hiện như một quá trình giảm âm lan tỏa với các giới hạn không xác định và xơ hóa rõ rệt.
Tóm lại, siêu âm tuyến giáp là phương thức hình ảnh cơ bản ưu tiên thực hiện để đánh giá các nhân giáp được tìm thấy khi khám lâm sàng hoặc tình cờ phát hiện qua xét nghiệm hình ảnh khác. Với các đặc điểm của nhân giáp trên siêu âm, bản chất của những cấu trúc này sẽ được xác định, từ đó định hướng theo dõi qua thời gian hay lập kế hoạch khảo sát chuyên sâu hơn cho người bệnh.
Ho rát họng có đờm là một vấn đề phổ biến có thể gặp ở bất kỳ ai. Nguyên nhân của tình trạng này có thể là viêm amidan, cảm cúm, viêm họng, thậm chí là ung thư vòm họng.
Viêm phế quản là một bệnh lý phổ biến trong xã hội ngày nay mà nhiều người có thể mắc phải. Tuy viêm phế quản không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người bệnh.
Ho, sốt đau họng là những triệu chứng thường gặp cùng lúc và có thể ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Bài viết dưới đây sẽ làm rõ nguyên nhân, cách nhận biết và những phương pháp hiệu quả để giảm nhẹ và xua tan những triệu chứng này.
Là một phần quan trọng của hệ hô hấp, họng thường mắc phải nhiều bệnh lý khác nhau. Các bệnh về họng có thể đơn giản chỉ là viêm họng hoặc có thể nghiêm trọng hơn như viêm amidan, viêm thanh quản và thậm chí ung thư họng.
Thời điểm giao mùa, các trung tâm Y tế đang ghi nhận nhiều trường hợp bệnh nhi mắc viêm phổi do vi khuẩn Mycoplasma. Đây là một bệnh thường xuất hiện trong mùa giao mùa, đặc biệt làm lây lan nhanh chóng.
Rất nhiều thai phụ băn khoăn rằng, không biết sử dụng thuốc trị bệnh về tuyến giáp trong thời gian đang mang thai có an toàn không? Để giải đáp thắc mắc trên, mời các bạn cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây!
Sắt là một khoáng chất cần thiết trong cơ thể con người. Sắt tham gia vào quá trình hình thành hồng cầu – các tế bào máu có nhiệm vụ vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Nồng độ sắt thấp hay thiếu sắt sẽ gây mệt mỏi và làm giảm khả năng chống lại nhiễm trùng của cơ thể. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi nồng độ sắt quá cao?