1

Vô cảm phẫu thuật lấy tai - bệnh viện 103

1. Đại cương

Mang thai bình thường không phải là tình trạng bệnh lý, nhưng mang thai thường kèm theo những thay đổi sinh lý mà người gây mê hồi sức phải nắm rõ, những thay đổi trong quá trình gây mê ảnh hưởng không chỉ trên người mẹ mà cả lên thai nhi.

Đối với mổ lấy thai có kế hoạch, gây tê tuỷ sống thường được áp dụng, phương pháp này gây ra nhiều thay đổi về huyết động. Trong các trường hợp cấp cứu phải nắm vững phương pháp gây mê toàn thân bởi vì mức độ cấp cứu của các chỉ định mổ lấy thai.

2. Thay đổi sinh lý

2.1. Thay đổi về hô hấp

2.1.1. Nguy cơ đặt nội khí quản khó

–Tỷ lệ đặt nội khí quản khó thường cao gấp 8 lần trong quá trình thai nghén. Do cương tụ mạch máu ở niêm mạc đường hô hấp trên dẫn đến soi thanh quản trực tiếp khó khăn hơn và làm giảm đường kính thanh quản (cần dùng ống nội khí quản nhỏ hơn một số so với bình thường).

–Cương tụ mạch máu đường hô hấp trên dễ gây chảy máu khi soi thanh quản.

1.2.2. Thay đổi cơ chế hô hấp

–Gia tăng kích thước tử cung làm giảm biên độ dao động của cơ hoành. Hô hấp ngực dần dần thay thế hô hấp bụng, thể tích phổi ít bị ảnh hưởng.

–Khi thai đủ tháng, dung tích dự trữ chức năng giảm 15 – 20%. Điều này giải thích vì sao độ bão hoà oxy giảm nhanh khi khởi mê. Thể tích đóng tăng ở bệnh nhân mang thai làm gia tăng nguy cơ xẹp phổi và thiếu oxy nhất là trong tư thế nằm ngửa.

1.2.3. Tăng thông khí

–Trong thai kỳ, thông khí phế nang tăng do tăng thể tích khí lưu thông (tần số hô hấp không thay đổi). Khi thai đủ tháng, thông khí phế nang tăng 50 % dẫn đến nhược thán (PaCO2 thấp) và giảm dự trữ kiềm máu (bicarbonate) do kiềm hô hấp bù trừ, tăng áp lực riêng phần của oxy trong máu động mạch (PaO2 106- 108mmHg). Tăng công hô hấp kèm với tăng chuyển hoá cơ bản làm tăng tiêu thụ oxy lên 20 %. Hai hiện tượng này cùng với giảm dung tích cặn chức năng làm tăng nguy cơ giảm nhanh độ bão hoà oxy khi ngừng thở, kể cả ngừng thở thoáng qua.

– Vì vậy cần cho thở oxy 100% trong 5 – 10phút (để đuổi khí nitơ) trước khi khởi mê ở phụ nữ mang thai.

2.2 Thay đổi về tim mạch

2.2.1. Tăng cung lượng tim

Cung lượng tim tăng dần trong quá trình thai nghén và đạt tối đa giữa tuần lễ thứ 28 và tuần thứ 32, đạt đến 30% – 50%.

2.2.2. Tăng thể tích máu lưu thông

Thể tích máu lưu thông cũng tăng để đạt tối đa vào tuần thứ 32. Thể tích máu có thể tăng đến 30 – 40%, do tăng thể tích huyết tương (50%). Tăng thể tích hồng cầu ít hơn (15%).

Điều này giải thích thiếu máu sinh lý do hoà loãng máu vào cuối thai kỳ. Sự gia tăng cung lượng tim, sự hoà loãng máu và dịch đường phân ly hemoglobin về phía bên phải giải thích hiện tượng thiếu máu này. Tăng cung lượng tim trên lâm sàng biểu hiện bằng tiếng thổi tâm thu cơ năng ở trên 80% thai phụ cuối thai kỳ. Hoà loãng máu làm giảm nồng độ protein huyết tương và tăng dạng tự do của nhiều thuốc trong gây mê.

2.2.3. Thay đổi huyết áp động mạch

Huyết áp động mạch giảm trong 3 tháng đầu của thai kỳ 5 – 10 mmHg với huyết áp tâm thu và 10 – 15 mmHg với huyết áp tâm trương. Tiếp theo huyết áp tăng dần trong 3 tháng giữa và dần trở về giá trị ban đầu khi thai đủ tháng.

Những thay đổi hormon làm thay đổi sức cản mạch máu hệ thống. Mặc dầu tăng trương lực giao cảm, phụ nữ mang thai nhạy cảm hơn với những thay đổi huyết động gây ra do phong bế trung ương. Sự nhạy cảm recepteur p của tim giảm, giải thích sự ít nhạy cảm hơn của liều test adrenaline ở bệnh nhân gây tê ngoài màng cứng.

2.2.4. Hội chứng chèn ép động – tĩnh mạch chủ

Hội chứng này có thể xuất hiện trong ba tháng giữa của thai kỳ và ảnh hưởng tối đa khi thai đủ tháng. Nguyên nhân do tử cung chèn ép tĩnh mạch chủ dưới trong tư thế nằm ngửa. Sự chèn ép này đôi khi gây chèn ép hoàn toàn, làm giảm tuần hoàn trở về và làm giảm 20% cung lượng tim người mẹ.

Thai nhi có thể bị ảnh hưởng do giảm cung lượng máu đến tử cung. Ảnh hưởng nguy hiểm của chèn ép tĩnh mạch tăng lên nếu có chèn ép động mạch kết hợp. Tử cung càng to ảnh hưởng này càng rõ (đa thai, đa ối…).

Hội chứng này có biểu hiện lâm sàng trong 10% trường hợp với ngất, đôi khi có rối loạn ý thức, tụt huyết áp, chóng mặt, buồn nôn, nhợt nhạt, vã mồ hôi. Phòng ngừa bằng cách dịch chuyển tử cung qua trái. Cho nằm nghiêng trái 15 – 200 hay kê một gối dưới hông phải. Liệt mạch do gây tê vùng làm tăng mức độ nặng của hội chứng này. Sau khi gây tê nên kê một gối dưới hông phải bệnh nhân.

2.3. Các thay đổi khác

2.3.1 Thay đổi về máu

Vào cuối thai kỳ có hiện tượng tăng đông máu với giảm tiêu sợi huyết nhờ vậy làm giảm nguy cơ chảy máu khi sinh nhưng làm tăng nguy cơ bị huyết khối. Vào cuối thai kỳ, các yếu tố II,VII, X tăng 50 % và nồng độ yếu tố VIII nhân lên gấp 3 – 10 lần giải thích sự điều chỉnh tự nhiên của một vài thể bệnh Von Willebrand vào cuối thai kỳ. Fibrinogen tăng để đạt 3 – 7 g/l khi sinh. Tiểu cầu bình thường hay giảm nhẹ. Tình trạng tăng đông kéo dài 4 – 6 tuần sau sinh.

2.3.2. Thay đổi trên hệ tiêu hoá

Sự tăng nồng độ progesterone làm giảm nhu động dạ dày, ruột và tăng tiết gastrine của bánh nhau làm tăng thể tích và độ acid của dịch dạ dày. Trương lực của cơ trơn phần dưới thực quản giảm, tăng nguy cơ trào ngược dạ dày thực quản. Tử cung có thai đẩy dạ dày ruột làm chậm việc làm rỗng dạ dày.

Tất cả những thay đổi trên làm tăng nguy cơ trào ngược và hít dịch dạ dày bắt đầu từ tuần thứ 15 của thai kỳ, người ta có thể làm giảm nguy cơ trên bằng cách dùng các kháng acid và bằng kỹ thuật đặt nội khí quản nhanh với thủ thuật Sellick lúc khởi mê khi gây mê toàn thân.

2.3.3. Tăng nhạy cảm với thuốc

Trong 3 tháng đầu của thai kỳ đã có sự tăng nhạy cảm của sợi thần kinh với thuốc tê nên liều thuốc tê nên giảm khoảng 30%.

2.3.4. Tăng nhạy cảm với thuốc mê họ halogen: Nên giảm MAC từ 25 – 40%

3. Vô cảm mổ lấy thai

Ở Pháp, năm 1996 tỉ lệ mổ lấy thai 16,8% con số này gia tăng rõ so với năm 1980 (8,1%). Về phương diện gây mê, mổ lấy thai là một can thiệp có nguy cơ cao, nhất là khi mổ cấp cứu.

Một nghiên cứu về các trường hợp tử vong mẹ ở Mỹ thì năm 1979 đến 1990 công bố 129 trường hợp tử vong mẹ có liên quan đến gây mê trong số 4097 trường hợp. Trong 82% các trường hợp liên quan đến mổ lấy thai thì gây mê toàn thân có nguy cơ tử vong 16,7 lần nhiều hơn so với gây tê vùng. Như vậy, cần phải thận trọng khi tiến hành vô cảm để mổ lấy thai và nên chọn gây tê vùng nếu có thể.

3.1. Nguyên tắc

Dù kỹ thuật vô cảm nào cũng tôn trọng một số khuyến cáo chung:

–Kỹ thuật gây tê vùng được khuyến khích: Gây mê toàn thân nguy cơ tử vong 16,7 lần so với gây tê vùng.

–Phát hiện đặt nội khí quản khó: Dựa vào tiêu chuẩn và thang đánh giá Mallampati, chỉ số Wilson và tìm các yếu tố nguy cơ.

–Trung hoà acid dạ dày vì nguy cơ hít dịch dạ dày: Dùng citrat natri, cimetidine, ranitidine

–Thủ thuật Sellick khi gây mê toàn thân.

–Duy trì huyết động người mẹ bình thường:

  • Đặt nằm nghiêng trái
  • Điều trị hạ huyết áp

–Duy trì co cơ tử cung (oxytocin ngay sau khi lấy thai và tiếp tục trong vòng 12 giờ).

–Kháng sinh để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ: nên dùng đường tĩnh mạch sau khi đã cặp rốn.

–Dự phòng tắc mạch: nên dùng heparine trọng lượng phân tử thấp     ở sản phụ có nguy cơ cao như có bệnh lý tim mạch, tiền sản giật, sản giật không có rối loạn đông máu, bệnh béo phì.

3.2. Gây tê vùng

–Gây tê vùng là kỹ thuật được chọn lựa. Thật vậy, kỹ thuật này tránh được việc đặt nội khí quản, tránh nguy cơ hít phải dịch dạ dày, giảm nguy cơ cơn tăng huyết áp khi đặt nội khí quản, đặc biệt là trong trường hợp tiền sản giật, khi thời gian “rạch da-lấy bé” kéo dài, thang điểm thần kinh thái độ và chỉ số Apgar của trẻ sơ sinh ở sản phụ gây tê vùng cao hơn so với ở sản phụ gây mê toàn thân. Nhu động ruột phục hồi sớm hơn và sản phụ hoạt động trở lại sớm hơn. Mặt khác, gây tê vùng thường kèm theo giảm đau tốt sau mổ. Cuối cùng là sự hài lòng của sản phụ khi áp dụng gây tê vùng.

– Mức gây tê phải đến mức D4, nếu không bệnh nhân có cảm giác bị co kéo và buồn nôn là bằng chứng của giảm đau phúc mạc không đủ.

– Người ta có thể áp dụng kỹ thuật gây tê tuỷ sống hoặc gây tê ngoài màng cứng. Sử dụng kỹ thuật tê tuỷ sống – ngoài màng cứng kết hợp đang được đánh giá.

3.2.1 Gây tê tủy sống

3.2.1.1 Tổng quan

Hiện nay, gây tê tủy sống được áp dụng nhiều cho mổ lấy thai vì nó có nhiều lợi điểm so với kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng:

–Chất lượng gây tê tuân theo luật “Có tất cả hoặc không có gì hết” và nói chung gây tê tuỷ sống là có chất lượng tốt.

–Thời gian từ khi tiêm thuốc đến khi mổ được dưới 5 phút. Do đó, có thể áp dụng trong trường hợp mổ cấp cứu.

–Phong bế cảm giác tốt

–Phong bế vận động tốt.

–Kỹ thuật thực hiện đơn giản.

–Liều thuốc tê ít hơn so với gây tê ngoài màng cứng.

– Chi phí thấp.

Tuy nhiên, kỹ thuật này vẫn còn một số nhược điểm do khởi phát tác dụng nhanh nên thường gây ra tụt huyết áp nhanh, mạnh ở người mẹ.

3.2.1.2. Thuốc tê

–Lidocaine (Xylocaine): Thường dùng dung dịch 5%, nhưng hay gây ra hội chứng chùm đuôi ngựa, kích thích rễ thần kinh thoáng qua nên người ta không sử dụng.

–Bupivacaine (Marcaine 0,5% heavy): Là thuốc tiêu chuẩn, được sử dụng rộng rãi, có thể chỉ sử dụng bupivacaine là đủ thời gian cho cuộc mổ lấy thai.

–Có thể phối hợp thêm với các loại thuốc khác để giảm liều bupivacaine: morphine 0,1mg – 0,2mg, sufentanil 2,5 – 5mcg, fentanyl 10mcg, clonidine 1-2mcg/kg.

3.2.1.3. Tiến hành

Theo các bước của kỹ thuật gây tê tủy sống nhưng cần chú ý:

–Tiền mê bằng Tagamet sủi bọt 200 mg trong 20 ml nước ngay khi có chỉ định mổ lấy thai.

– Chuẩn bị sẵn Ephedrine 20mg trong bơm tiêm 10ml (có thể dự phòng bằng cách truyền 20mg ephedrine pha trong 500 ml dung dịch Ringer lactate hoặc dung dịch NaCl 0,9%).

–Bù dịch trước khi khi gây tê 15 – 20ml/kg Ringer lactate.

–Theo dõi huyết áp động mạch 2 phút/1lần.

–Tư thế ngồi hay nằm nghiêng trái: người ta thích tư thế nằm hơn vì thuốc lan toả đều, nếu chọc kim ở tư thế ngồi cần lượng thuốc tê lớn hơn, sản phụ khó chịu, dễ gây tụt huyết áp đột ngột, tuy nhiên dễ chọc hơn.

–Liều Marcaine từ 8 – 10 mg.

– Sau khi chọc xong kê gối dưới hông phải hay nghiêng bàn sang trái15 – 200.

– Cho thở oxy qua mũi hay mặt nạ: 3 lít/phút

–Đánh giá mức tê lan lên trên bằng mất cảm giác nóng lạnh.

3.2.1.4. Chống chỉ định

–Sản phụ từ chối

–Rối loạn cầm máu, đông máu hoặc đang dùng thuốc chống đông.

–Nhiễm khuẩn tại chỗ chọc kim hay nhiễm khuẩn huyết + Thiếu khối lượng tuần hoàn chưa được điều chỉnh + Suy thai cấp yêu cầu mổ nhanh

3.2.1.5. Biến chứng

–Hạ huyết áp là biến chứng thường gặp nhất của gây tê tủy sống. Để phòng ngừa:

  • Người ta đặt bệnh nhân nằm nghiêng trái, kê gối dưới hông phải khi đặt tư thế nằm ngửa để tránh hội chứng chèn ép động – tĩnh mạch chủ.
  • Bù dịch 20 ml/kg Ringer lactate.
  • Sử dụng ephedrine, người ta nhận thấy liều ephedrine nhỏ hơn 50mg không làm thay đổi lưu lượng máu tử cung.

– Nôn và buồn nôn tần suất xuất hiện khoảng 60% trong khi gây tê. Cơ chế rất phức tạp thường là hậu quả của hạ huyết áp hoặc là tác dụng không mong muốn của thuốc họ morphine. Thường xuất hiện trong thì lau ổ phúc mạc hay lôi tử cung ra ngoài. Làm giảm nôn bằng metoclopramide (Primperan 10mg) tiêm tĩnh mạch hay droperidol 2,5 mg tiêm tĩnh mạch.

–Đau đầu do rách màng cứng. Điều trị bằng cho nghỉ tại giường, bù nước đủ, dùng paracetamol 15 mg/kg/6giờ, dùng cafeine bằng đường tĩnh mạch 200 – 300mg cho lặp lại nếu 3 giờ sau không giảm đau đầu hay đường uống. Nếu thất bại thì dùng kỹ thuật “Blood patch”.

–Biến chứng hô hấp: khi thuốc tê lan lên cao bệnh nhân có cảm giác khó thở, suy hô hấp muộn nếu có dùng kết hợp morphine. Xử trí cho thở oxy, nếu giảm thông khí nhiều thì dặt nội khí quản, thông khí nhân tạo. Nếu có kết hợp morphine nên theo dõi hô hấp trong 24 giờ đầu sau mổ.

–Rét run: về sinh lý bệnh chưa thật rõ ràng có thể dùng pethidine 30-50 mg tiêm tĩnh mạch sẽ có hiệu quả hoặc catapressan 0,05 mg tiêm tĩnh mạch, kết hợp làm ấm dịch truyền.

3.2.2. Gây tê ngoài màng cứng

–Sử dụng gây tê ngoài màng cứng cho mổ cấp cứu ngày càng tăng, căn bản là do gia tăng sử dụng gây tê ngoài màng cứng trong quá trình chuyển dạ. Ngược lại, việc sử dụng gây tê ngoài màng cứng trong mổ chủ động và toàn bộ các cuộc mổ đẻ rất thấp, một phần là do kết quả tê ít hiệu quả hơn so với gây tê tủy sống, và kỹ thụật CSE trên cả phương diện khởi phát tê nhanh của tê tủy sống và theo sau việc đặt catheter ngoài màng cứng cho tê kéo dài và lan rộng nếu cần.

– Mặc dù thuốc sử dụng trong khoang tủy sống và ngoài màng cứng là khác nhau, liều thuốc dùng trong gây tê ngoài màng cứng cao gấp 5 đến 10 lần so với liều cho gây tê tủy sống. Gây tê ngoài màng cứng phảỉ thấm vào rễ thần kinh đi ngang khoang này. Hơn nữa, khả năng chứa của khoang ngoài màng cứng lớn hơn nhiều so với khoang tủy sống và cần nhiều thể tích thuốc tê vùng để đảm bảo phủ toàn bộ khoang này. Khoang ngoài màng cứng chứa phức hợp tĩnh mạch có thể bị ứ trệ trong thai kỳ. Do đó, sự hấp thu các thuốc trong hệ thống tăng hơn khi gây tê ngoài màng cứng.

–Ưu điểm của kỹ thuật này bao gồm thời gian bắt đầu ức chế giao cảm chậm hơn, điều này giải thích tại sao phương pháp này ít gây tụt huyết áp.

–Thường người ta đã đặt catheter giảm đau để sinh đường dưới. Giảm đau tốt sau mổ với catheter ngoài màng cứng.

–Để mổ lấy thai có thể dùng lidocaine 20 ml 2%, có thể cho thêm morphine.

3.3 Gây mê toàn thân

Gây tê vùng được ưu tiên lựa chọn, nhưng trong một số trường hợp gây mê toàn

thân phải chỉ định. Những trường hợp sau nên chỉ định gây mê:

3.3.1 Mức độ cấp cứu của chỉ định mổ lấy thai cấp cứu

–Khẩn cấp: Thời gian không quá 5 phút

  • Nguyên nhân suy thai cấp do thiếu oxy: sa dây rốn, khối máu tụ sau rau, chảy máu nặng (Benckiser), nhịp tim thai chậm kéo dài, tăng trương lực cơ tử cung.
  • Nguyên nhân mẹ: rau tiền đạo chảy máu, vỡ tử cung.

–Cấp cứu không thể chậm trễ: thời gian 10 – 15 phút 

  • Nguyên nhân con: Suy thai cấp nhưng điều trị có cải thiện (tim thai chậm có hồi phục).
  • Nguyên nhân mẹ: dọa vỡ tử cung, sản giật
  • Nguyên nhân khác: thất bại lấy thai bằng dụng cụ, ngôi mông, mắc đầu hậu.

–Cấp cứu nhưng có thời gian chuẩn bị: thời gian trên 30 phút

  • Nguyên nhân cơ học: Ngưng mở cổ tử cung trong khi chuyển dạ, không lọt, thất bại khởi phát chuyển dạ, bất tương xứng mẹ – con.
  • Nguyên nhân mẹ: tăng huyết áp, có chỉ định mổ lấy thai khi chuyển dạ.
  • Nguyên nhân thai: suy thai mạn, bất đồng nhóm máu Rhésus.

Mổ lấy thai ghi nhận xảy ra nhiều biến chứng cho mẹ nhất là mổ trong tình huống cấp cứu. Chỉ định thay đổi, nhưng thường hay gặp là chỉ định trong trường hợp suy thai cần lấy thai ra nhanh. Người mẹ thường lo lắng, nhớ rằng không quên trấn an tinh thần cho người mẹ.

Trong một số chỉ định mổ lấy thai cấp cứu (mất máu nặng, rau tiền đạo, vỡ tử cung, tắc mạch do nước ối…) có nguy cơ chảy máu cao nên lấy tối thiểu hai đường truyền tĩnh mạch.

Sự kết hợp giữa bác sĩ gây mê và bác sĩ sản khoa giúp chọn phương pháp gây mê phù hợp. Phải tính đến nhiều tiêu chuẩn, nhất là mức độ cấp cứu cần phải lấy con ra trong vòng trước hay sau 10 phút. Cần lấy con ra trong thời gian dưới 10 phút thì gây mê toàn thân gần như là lựa chọn bắt buộc. Tuy nhiên, nếu người gây mê có kinh nghiệm thì có thể thực hiện gây tê tuỷ sống được.

Nếu có thể chậm trễ trên 10 phút thì gây tê vùng được lựa chọn. Nếu không có catheter ngoài màng cứng thì gây tê tủy sống là kỹ thuật được lựa chọn. Nếu đang có catheter ngoài màng cứng thì người ta bơm thêm 20ml lidocaine 2% có adrenaline 1:200 000 sẽ gây tê đủ để phẫu thuật trong thời gian dưới 10 phút.

3.3.2 Kỹ thuật gây mê toàn thân

Tuần tự qua các bước tiền mê – khởi mê – duy trì mê – sau cặp rốn – thoát mê. Cần chú ý một số điểm sau đây:

–Cho thở oxy 100% trong vòng 3 phút hay cho hít thở tối đa (kiểu đạt dung tích sống) 4 lần oxy 100%. Cả hai kỹ thuật này cho kết quả như nhau nhưng cho thở oxy 100% 4 lần nhanh hơn và phù hợp hơn trong tình huống cấp cứu.

–Chuẩn bị sẵn máy hút

–Phát hiện đặt nội khí quản khó, chuẩn bị sẵn phương tiện để xử trí đặt nội khí quản khó khi khám không phát hiện ra.

–Sử dụng ống nội khí quản có đường kính nhỏ hơn, số nhỏ hơn bình thường một số, thường dùng số 6.5 hoặc số 7.0. Gây mê đủ sâu.

–Hạn chế ba lần đặt ống để tránh nguy cơ phù phản ứng gây khó đưa ống nội khí quản vào thậm chí không thể thông khí bằng mask. Nếu sau 30 giây không đặt được nội khí quản cần thông khí bằng mask với oxy 100% sau đó đặt lại lần 2.

–Theo dõi độ bão hòa oxy mao mạch (SpO2.

– Phòng ngừa hội chứng trào ngược: sau khi kiểm soát pH dạ dày, nhịn ăn, tiến hành thủ thuật Sellick (xem bài Gây mê phẫu thuật bụng cấp cứu), được thực hiện bởi người phụ khi sản phụ mất ý thức cho đến khi đặt nội khí quản xong, bơm bóng, kiểm tra vị trí của ống nội khí quản bằng ống nghe, bằng đo CO2 thì thở ra. Ngược lại, ngưng thủ thuật Sellick trong trường hợp bệnh nhân nôn vì có nguy cơ vỡ thực quản. Nếu như đặt nội khí quản khó, tiến hành thông khí bằng mask để đảm bảo cung cấp oxy thì vẫn duy trì thủ thuật Sellick.

–Các thuốc gây mê

  • Thuốc mê: Thiopental liều khởi mê 4,5- 5mg/kg, ketamine 2mg/kg, etomidate 0,2 – 0,3mg/kg, propofol 2,5mg/kg, đặt nội khí quản bằng giãn cơ khử cực.
  • Thuốc giãn cơ: Suxamethonium 1 – 1,5mg/kg. Thuốc giãn cơ có qua hàng rao rau thai nhưng rất ít không gây hậu quả về lâm sàng vì nó có trọng lượng phân tử lớn, ít tan trong lipid, độ ion hoá cao. Có thể sử dụng vecuronium, pancuronium, rocuronium, atracuronium… Liều dùng bằng 50-75% liều thông thường.
  • Thuốc giảm đau họ morphine qua hàng rào nhau thai dễ dàng nên gây suy hô hấp thai nhi, chỉ sử dụng sau khi đã kẹp cuống rốn. Tuy nhiên, có thể sử dụng trong một số trường hợp như tiền sản giật, tăng huyết áp để làm hạn chế cơn tăng huyết áp khi khởi mê.
  • Thuốc mê bay hơi họ halogen: trong quá trình thai nghén sản phụ tăng nhạy cảm với các loại thuốc mê bốc hơi. Tất cả các thuốc mê họ halogen làm giảm co cơ tử cung phụ thuộc nồng độ nhưng ở nồng độ thấp nó không làm ức chế đáp ứng của cơ tử cung với oxytocine. Người ta khuyến cáo sử dụng nồng độ thấp: 0,4 – 0,5% với halothane và 0,75% với isoflurane.

Nguồn: Bệnh viện 103

Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Blog khác của bác sĩ

Dr Duy Thành

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây