1

Xử trí chảy máu mũi - Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn

Phân loại

  • Chảy máu do điểm mạch Kisselbach.
  • Chảy máu do động mạch.
  • Chảy máu toả lan do mao mạch: máu rỉ khắp niêm mạc mũi, không có điểm nhất định thường xuất hiện trong bệnh bạch cầu tuỷ cấp, bệnh ưa chảy máu, thương hàn, sốt xuất huyết.

Chảy máu nhẹ

Nguyên nhân: chấn thương nhẹ do ngoáy mũi hoặc những bệnh như cúm, thương hàn, đôi khi người khoẻ mạnh bình thường cũng có thể đột nhiên chảy máu.

Soi mũi:

  • Thấy máu chảy ra từ điểm mạch hoặc động mạch.
  • Máu chảy ra không nhiều, chảy từng giọt và có xu hướng tự cầm.
  • Bệnh hay tái diễn nhiều lần.
  • Loại chảy máu cam này thường thấy ở những trẻ con và tia lượng nhẹ.

Chảy máu nặng

Nguyên nhân: vỡ động mạch mũi trong các bệnh cao huyết áp, xơ vữa động mạch, xơ gan… thường thấy ở những bệnh nhân lớn tuổi có bệnh mãn tính.Trong chấn thương thường tổn thương động mạch sàng và gây ra chảy máu khó cầm.

Soi mũi: khó thấy điểm chảy vì điểm chảy thường ở trên cao và ở phía sau

Điều trị

Trước một bệnh nhân đang chảy máu mũi, việc đầu tiên là phải cầm ngay, sau đó mới đi tìm nguyên nhân bệnh.

Chảy máu mũi ít.

  • Dùng hai ngón tay bóp hai cánh mũi lại là cho vết kisselback bị đè bẹp
  • Dùng bấc thấm thuốc co mạch như êphêdrin hoặc antipyrin 20% nhét chặt vào hốc mũi và tiền đình.
  • Đốt bằng nitrat bạc hoặc côte điện.

Chảy máu mũi nhiều.

Phải dùng những biện pháp tích cực.

Phương pháp đặt meche mũi trước:

  • Dụng cụ: đèn clar, mở mũi, nỉa khuỷu, đè lưỡi, bấc  rộng 1,5cm dài 40cm, ngón tay găng.
  • Thuốc : dầu paraphin, thuốc tê cocain 6%, túi cao su (capôt hoặc ngón tay găng).

Cách làm: 

  • Trước tiên bảo bệnh nhân xì hết máu và đặt vào mũi một đoạn bấc thấm côcain dài 10cm có tác dụng giảm đau và co mạch khi tiến hành thủ thuật. Sau 3 phút rút bấc côcain ra, dùng mở mũi banh rộng lỗ mũi ra qua sát bên trong hốc mũi xem bệnh nhân có mào vách ngăn hoặc vẹo vách ngăn hay không mục đích để khi tiến hành thủ thuật không chọc vào đấy làm chảy máu thêm.
  • Bơm mỡ kháng sinh hoặc dầu paraphin vào hốc mũi sau đó luồn túi cao su bọc lấy mở mũi, rồi đặt túi cao su vào mũi. Dùng nỉa khuỷu nhét bấc vào trong hốc mũi qua mở mũi sâu 6-8cm, tiếp tục nhét bấc vào hốc mũi, bắt đầu ở phía trên dưới sau ( nhét sâu sát cửa mũi sau) rồi trong trước, ngoài sau ra tới tận cửa mũi.
  • Bấc được xếp theo hình chữ chi theo kiểu đàn phong cầm). Trong khi nhét bấc mũi nên nhét chặt không để khoảng cách chết. Kiểm tra thành sau họng không thấy máu chảy xuống họng là được.

Rút bấc: không nên để bấc quá 48 h, thường nên rút ra nếu có sốt. Trong khi tháo bấc phải rút thật chậm, tư thế nằm nghiêng, thầy thuốc kéo bấc ra từ từ, từng đoạn một, mỗi đoạn không quá 5 cm, cứ sau mỗi đoạn dừng 5 phút, vừa rút vừa nhỏ thuốc oxy già vào mũi. Rút bấc kéo dài chừng 20 tới 30 phút.

Phương pháp đặt mèche mũi sau:

Nếu chảy máu cam do thương tổn phía sau và trên của hốc mũi hoặc đã đặt mèch mũi trước rồi mà không có hiệu quả thì phải áp dụng thủ thuật mèch mũi sau.

Dụng cụ: Ngoài các dụng cụ như trên dùng cho đặt mechè mũi trước cần thêm một ống Nelaton nhỏ bằng cao su, một cục gạc hình trụ đường kính chiều cao 3cm buộc vào một sợi chỉ chắc dài 25cm, một cục gạc thứ hai cũng hình trụ nhưng nhỏ hơn đường kính 1cm.

Cách làm:

  •  Đặt ống Nelaton vào lỗ mũi bên chảy máu đẩy ống xuống họng. Bảo bệnh nhân há mồn, dùng kìm cặp đầu Nelaton ra khỏi miệng. Buộc một đầu chỉ của cục gạc vào đầu ống Nelatọn.
  • Kéo ống Nelaton ngược từ họng lên mũi. Cục gạc bị sợi chỉ lôi ngược từ họng lên vòm mũi họng nút vào cửa mũi sau. Khi cục gạc đi qua eo màn hầu nó thường bị vướng lại, thầy thuốc nên dùng ngón tay trỏ tay phải đẩy cục gạc lên phía trên và phía sau giúp nó vượt qua eo hẹp.
  • Tay trái cầm ống Nelaton và sợi chỉ kéo về phía trước. Xong rồi tháo sợi chỉ khỏi ống cao su và buộc nó vào cục gạc thứ hai, cục này đút kín lỗ mũi trước.

Sau khi đặt mechè mũi sau có thể đặt thêm mechè  mũi trước như trên đã mô tả.

Nếu đặt mèche mũi sau và meche mũi trước rồi mà mũi vẫn còn chảy ta phải buộc động mạch hàm trong ở hố chân bướm hàm hoặc thắt động mạch sàng trước và sàng sau ở bờ trong của hốc mắt.

Điều trị bằng thuốc:

  • Truyền dịch, truyền máu (chú ý truyền máu tươi)
  • Thuốc cầm máu: vitamin C, vitamin K, transamin, hemocaprol, CaCl2.
  • Thuốc trợ tim mạch: Spartein, uabain….
  • Thuốc kháng sinh mạnh phổ rộng: cephalosporin thế hệ III.
  • Thuốc giảm đau: profenid, alaxan, efferalgan-codein..
  • Thuốc an thần: rotunda, gardenal, seduxen, stilnox,..

Nguồn: Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn

Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Blog khác của bác sĩ

Dr Duy Thành

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây