1

Uống dầu cá có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch

Một nghiên cứu lâm sàng gần đây cho thấy rằng uống dầu cá có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và vitamin D làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong do ung thư.
Uống dầu cá có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch Uống dầu cá có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch
  • Một nghiên cứu mới đây cho thấy uống dầu cá có thể giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch như nhồi máu cơ tim.
  • Uống vitamin D dường như không có tác dụng giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim nhưng lại làm giảm nguy cơ ung thư.
  • Ăn cá thay vì uống dầu cá cũng mang lại lợi ích tương tự.

Theo một báo cáo vào năm 2017 của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), ung thư và bệnh tim mạch là hai nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người trung niên. (1)

Tuy nhiên, một nghiên cứu về vitamin D và axit béo omega-3 có tên là “Vitamin D and Omega-3 Trial” (VITAL) đã cho thấy rằng cả vitamin D và dầu cá đều đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ tử vong do các bệnh này. (2)

Dầu cá giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch

VITAL là một nghiên cứu được tiến hành trên khoảng 26.000 nam giới và phụ nữ ở Mỹ. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá xem liệu rằng việc uống bổ sung vitamin D3 (với liều lượng 2.000 IU) hoặc axit béo omega-3 hàng ngày có làm giảm nguy cơ ung thư và bệnh tim mạch ở những người không có tiền sử mắc các bệnh này hay không.

“Dầu cá từ lâu đã được cho là có lợi trong việc ngăn ngừa bệnh tim mạch. Điều này được chỉ ra trong các nghiên cứu về chế độ ăn kiểu Địa Trung Hải – một chế độ ăn uống có đặc trưng là nhiều các loại cá béo, chẳng hạn như cá hồi và cá thu, các loại hạt có chứa axit béo không bão hòa, nhất là axit béo omega-3.” - tiến sĩ Sreenivas Gudimetla, bác sĩ chuyên khoa Tim mạch tại Fort Worth, Texas (Mỹ) cho biết.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người uống axit béo omega-3 (dầu cá) đã giảm được đáng kể nguy cơ nhồi máu cơ tim. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng dầu cá mang lại lợi ích lớn nhất ở những người ăn dưới 150 gram cá mỗi tuần.

Theo tiến sĩ JoAnn Manson, người chỉ đạo nghiên cứu VITAL và giáo sư Y khoa tại Trường Y Harvard: “Mặc dù viên uống vitamin D và omega-3 rất tốt cho khỏe nhưng lợi ích mà mỗi người có được là không giống nhau. So với những người thường xuyên ăn cá thì những người ít khi ăn cá sẽ có được lợi ích lớn hơn từ axit béo omega-3 trong dầu cá.”

Vitamin D giúp giảm nguy cơ tử vong do ung thư

Theo nghiên cứu VITAL, mặc dù việc uống bổ sung vitamin D không làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và ung thư nhưng lại giúp giảm đáng kể nguy cơ tử vong do ung thư trong ít nhất 2 năm.

Tiến sĩ Brandie Williams, bác sĩ khoa Tim mạch tại bệnh viện Texas Health Stephenville cho biết: “Không có loại vitamin nào có thể ngăn chặn sự phát triển của bệnh tim mạch. Vì vậy điều quan trọng là phải giảm các yếu tố nguy cơ, chẳng hạn như nồng độ cholesterol, hút thuốc lá, cao huyết áp và bệnh tiểu đường.”

Tuy nhiên, theo kết quả của nghiên cứu VITAL thì việc uống vitamin D có thể giúp giảm 25% nguy cơ tử vong ở những người bị ung thư. Các nhà nghiên cứu đã xác nhận tác dụng này trong các phân tích tổng hợp gồm có nhiều thử nghiệm về vitamin D được thực hiện trước đây. (3)

Vitamin D không có tác dụng giảm nguy cơ tử vong ở người thừa cân

Tiến sĩ JoAnn Manson giải thích thêm rằng mặc dù vitamin D giúp làm giảm 25% nguy cơ tử vong do ung thư nhưng chỉ những người có cân nặng khỏe mạnh mới có được lợi ích này. Vitamin D không mang lại tác dụng tương tự ở những người thừa cân và béo phì.

“Cần phải thực hiện nhiều nghiên cứu hơn để hiểu rõ về tác dụng giảm tử vong do ung thư của vitamin D. Chúng tôi nghĩ rằng kéo dài thời gian theo dõi sau nghiên cứu VITAL là điều cần thiết.”.

Tiến sĩ Manson cũng cảnh báo vào thời điểm này, bà chưa khuyến nghị việc thay đổi hướng dẫn về vitamin D và mọi người vẫn nên uống bổ sung liều lượng vừa phải là khoảng 2.000 IU mỗi ngày. Đây là mức liều lượng an toàn đối với cơ thể, không nên dùng liều vượt quá 4.000 IU một ngày.

Cần nghiên cứu thêm

Tiến sĩ JoAnn Manson nhấn mạnh rằng cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu hơn để hiểu đúng và đủ về những lợi ích của việc dùng uống bổ sung canxi, vitamin D và dầu cá.

Bà cho biết: “Việc dùng thực phẩm chức năng mang lại lợi ích nhưng cũng có thể gây hại nếu không sử dụng đúng cách hoặc sử dụng khi không cần thiết. Cần nghiên cứu thêm để có khuyến nghị về nhóm đối tượng cụ thể nên sử dụng các loại thực phẩm chức năng này. Theo những gì chúng tôi nghiên cứu được cho đến thời điểm hiện tại thì không phải ai cũng nên uống dầu cá.”

“Nói chung, chúng tôi vẫn khuyến khích tốt nhất là nên ăn nhiều cá, ít nhất 200 gram mỗi tuần, nhưng ở những người không ăn cá vì lý do không thích hoặc bị dị ứng thì có thể sử dụng viên uống omega-3 có nguồn gốc từ tảo biển.”

Tuy nhiên, mọi người nên nói chuyện với bác sĩ trước để được tư vấn xem có nên uống dầu cá hay không và nếu có thì liều lượng bao nhiêu là hợp lý, đặc biệt là những người có các yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Tóm tắt bài viết

Một nghiên cứu lâm sàng gần đây cho thấy rằng uống dầu cá có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và vitamin D làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong do ung thư. Tuy nhiên, vitamin D không có tác dụng này ở những người bị thừa cân hoặc béo phì.

Kết quả nghiên cứu trên không có nghĩa là tất cả mọi người đều nên uống vitamin D và dầu cá. Tốt nhất vẫn nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi uống bổ sung.

Nếu uống bổ sung vitamin D thì liều lượng không được vượt quá 4.000 IU mỗi ngày.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Chủ đề: có thể, nguy cơ, dầu cá
Tin liên quan
Bổ sung vitamin C có thể làm giảm nguy cơ đục thủy tinh thể
Bổ sung vitamin C có thể làm giảm nguy cơ đục thủy tinh thể

Một nghiên cứu cho thấy rằng chế độ ăn uống nhiều vitamin C có thể làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh đục thủy tinh thể.

Vitamin D có thể làm giảm nguy cơ hen suyễn
Vitamin D có thể làm giảm nguy cơ hen suyễn

Các nghiên cứu cho thấy uống bổ sung vitamin D có thể làm giảm 50% nguy cơ lên ​​cơn hen suyễn.

Chế độ ăn dựa trên thực vật có thể làm giảm nguy cơ tiểu đường tuýp 2
Chế độ ăn dựa trên thực vật có thể làm giảm nguy cơ tiểu đường tuýp 2

Các chuyên gia cho biết không phải chế độ ăn dựa trên thực vật nào cũng giống nhau. Tuy nhiên, nếu thực hiện đúng thì một số chế độ ăn có thể giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2.

Bệnh còi xương: Triệu chứng, yếu tố nguy cơ và cách điều trị
Bệnh còi xương: Triệu chứng, yếu tố nguy cơ và cách điều trị

Bệnh còi xương chủ yếu xảy ra ở trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi. Trẻ em có nguy cơ bị còi xương cao nhất vì vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Trẻ sẽ dễ bị thiếu vitamin D nếu sống ở vùng có ít ánh nắng mặt trời, chế độ ăn quá ít thịt, cá, trứng hoặc không uống sữa. Đôi khi, tình trạng thiếu vitamin D là do di truyền.

Dr Duy Thành

 

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây