Trẻ có thể bị liệt nếu không can thiệp sớm gù vẹo cột sống - Bệnh viện Việt Đức
Mặc dù cột sống ngực có độ cong tự nhiên từ 20-45 độ, nhưng các bất thường về tư thế hoặc cấu trúc có thể dẫn đến một đường cong nằm ngoài phạm vi bình thường này.
Khi bác sĩ thăm khám, nếu đường cong cột sống lớn hơn bình thường (hơn 50 độ) được gọi là quá gù cột sống (hay gọi chung là gù cột sống) dẫn đến lưng trên tròn.
Triệu chứng của gù cột sống
Chúng có thể bao gồm:
- Tròn vai
- Bướu gù có thể nhìn thấy ở lưng
- Đau lưng nhẹ
- Mệt mỏi
- Cột sống cứng
- Cơ gân kheo (cơ ở mặt sau của đùi).
- Các đường cong tăng dần có thể dẫn đến yếu, tê hoặc ngứa ran ở chân
- Mất cảm giác
- Khó thở, thở nông.
Nguyên tắc vẹo cột sống phát hiện và can thiệp càng sớm càng tốt trong thời gian 5-8 tuổi, đặc biệt trước 10 tuổi. Nếu phát hiện muộn, nhiều cháu sẽ bị thiểu sản, kém phát triển lồng ngực dẫn tới phổi không phát triển được, phế nang ít đi.
Trẻ sẽ bị ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, tuần hoàn, tim mạch, các cơ quan hệ tiêu hóa. Khi qua thời gian vàng, phổi khung sươn xường bị biến dạng hết, phổi kém rồi thì không thể làm can thiệp lồng ngực và phổi.
Gần đây tỷ lệ các cháu bé đến khám tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức vì bệnh lý gù vẹo cột sống ngày một gia tăng. Đặc biệt, vào giai đoạn mùa hè, trung bình mỗi ngày khoa Phẫu thuật Cột sống mổ cho 2-3 vẹo cột sống ở đủ mọi lứa tuổi.
Ca bệnh gù vẹo cột sống ở trẻ
Bốn tuổi, bé N.T.T đã rơi vào cảnh bị liệt vì căn bệnh gù vẹo cột sống tiến triển quá nhanh. Bằng tất cả nỗ lực can thiệp cột sống, các bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã trải qua ca phẫu thuật căng thẳng để mang lại cuộc sống mới cho bệnh nhi.
Bé N.T.T bốn tuổi, chỉ nặng 10 kg được chuyển đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ Bệnh viện Nhi Trung ương trong tình trạng đã liệt nửa người.
PGS, TS Đinh Ngọc Sơn – Trưởng khoa Phẫu thuật Cột sống, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết, chưa bao giờ anh gặp một ca bị gù vẹo lại tiến triển nhanh, chèn ép tủy, gây liệt nhanh như bệnh nhi này.
Thể trạng bệnh nhi rất yếu, liệt hoàn toàn trước mổ. Bệnh nhi bị gù rất nặng nề ở vị trí ngực cao, rất khó can thiệp. Bệnh nhi mới bốn tuổi nên xương rất mềm, các bác sĩ phải tính toán rất kỹ trước mổ làm sao cố định cho cột sống đủ chắc, chỉnh hình được mà phải giải phóng được tủy để cháu bé không bị liệt.
Đây là một trong những ca đặc biệt khi can thiệp cột sống cho các bệnh nhi trong thời gian qua. Trong trường hợp này, bệnh nhi bị gù vẹo tiến triển quá nhanh dẫn tới liệt.
Nguồn: Bệnh viện Việt Đức.
Loãng xương là một bệnh lý mạn tính phổ biến ảnh hưởng đến sức khỏe xương. Loãng xương là khi khối lượng và mật độ xương giảm, điều này khiến xương trở nên suy yếu và dễ gãy. Bất cứ ai cũng có thể bị loãng xương nhưng có những yếu tố làm tăng nguy cơ, gồm có tuổi tác, giới tính và di truyền. Chế độ ăn uống và lối sống cũng có thể góp phần làm cho xương kém chắc khỏe và có nguy cơ loãng xương cao. Bài viết dưới đây sẽ giải thích ảnh hưởng của gen di truyền đến nguy cơ mắc bệnh loãng xương, tầm quan trọng của việc sàng lọc và các biện pháp phòng ngừa loãng xương.
Các vấn đề về cột sống là một trong những biến chứng của bệnh loãng xương, gồm có gãy xương sống và hẹp đốt sống. Sử dụng thuốc, thay đổi lối sống và tập thể dục có thể giúp kiểm soát bệnh loãng xương và phòng ngừa các vấn đề về cột sống.
Bệnh celiac có thể ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng từ thực phẩm của cơ thể và điều này có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương. Những người mắc bệnh celiac có nguy cơ gặp phải nhiều vấn đề sức khỏe về lâu dài khác, trong đó có chứng loãng xương. Tại sao bệnh celiac lại có thể dẫn đến loãng xương? Và làm thế nào để giảm thiểu nguy cơ?
Bệnh suy giáp không gây loãng xương. Tuy nhiên, dùng thuốc điều trị suy giáp quá liều có thể làm tăng nguy cơ loãng xương.
Không có cách nào có thể “đảo ngược” tình trạng mất xương. Nhưng có rất nhiều cách để ngăn chặn mất xương thêm và giảm nguy cơ gãy xương khi bị loãng xương.