Khám và tư vấn bệnh lý gù vẹo cột sống
- Gù vẹo cột sống là căn bệnh khá phổ biến hiện nay. Số trẻ em bị bệnh chiếm từ 0,5 đến 1 % dân số. Có 3 nhóm nguyên nhân lớn gây bệnh vẹo cột sống trẻ em:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất: Tự phát, không có nguyên nhân rõ ràng, thường xuất hiện khi trẻ bắt đầu bước vào giai đoạn dậy thì.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai: Trẻ mắc các dị tật bẩm sinh của cột sống như tật nửa thân đốt sống, dính đốt sống… gây nên vẹo cột sống.
- Nhóm nguyên nhân thứ 3: Tư thế như ngồi học không đúng, mang vác quá nặng, hoặc kích thước bàn ghế học không phù hợp với lứa tuổi, do bệnh còi xương, suy dinh dưỡng, chấn thương do tai nạn…
Tương tự vậy, bệnh lý gù cột sống cũng hay gặp ở tuổi thanh thiếu niên. Bệnh gù cột sống có thể do tự phát, viêm cột sống dính khớp hoặc cũng do trẻ ngồi học sai tư thế gây nên gù cột sống.
Nếu không chữa trị kịp thời đặc biệt với bệnh gù vẹo cột sống khởi phát sớm (Trước 10 tuổi), về lâu dài sẽ gây biến dạng nặng cột sống và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của các cơ quan nội tạng khác như phổi, lồng ngực, gây ra thiểu sản lồng ngực, phế nang, gây suy hô hấp, đe dọa đến sức khỏe, tính mạng các cháu.
Nếu nhẹ hơn bệnh có thể gây ảnh hưởng thẩm mỹ, khiến người bệnh tự ti, ảnh hưởng đến phát triển tâm sinh lý của trẻ.
PGS.TS Đinh Ngọc Sơn – Trưởng khoa Phẫu thuật Cột sống, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết:
Việc phát hiện gù vẹo trẻ em sớm, điều trị kịp thời có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần ngăn chặn và giảm thiểu những biến chứng trầm trọng nêu trên.
Tuy nhiên, một thách thức to lớn khác là vẹo cột sống ở trẻ nhỏ thì việc phẫu thuật lại vô cùng khó khăn do đặc điểm giải phẫu sinh lý của trẻ là cột sống còn đang tiếp tục phát triển.
Hiện nay, Khoa Phẫu thuật cột sống, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đang tiến hành kỹ thuật mới nhất trong điều trị cong vẹo cột sống ở trẻ đó chính là sử dụng nẹp tăng trưởng.
Kỹ thuật này sẽ áp dụng ở những bệnh nhi còn rất nhỏ tuổi, khởi phát sớm (3-10 tuổi) nhằm mục đích để kiểm soát đường cong vẹo của trẻ nhưng vẫn giúp cho cột sống của trẻ phát triển và điều hòa, cải thiện chức năng hệ cơ quan khác như lồng ngực, phổi, tiêu hóa.
Khi cha mẹ, người thân của trẻ nắm bắt được cách phát hiện những thay đổi bất thường trong hình dáng, cột sống của trẻ, hãy nhanh chóng đưa trẻ đến các cơ sở chuyên khoa để khám và điều tri kịp thời.
Nếu phát hiện sớm đôi khi trẻ chỉ cần điều trị bảo tồn:
- Thay đổi tư thế ngồi học
- Tích cực tập vận động
- Đu xà
- Tích cực chơi thể thao
- Mặc áo nẹp chỉnh hình…
Việc điều trị kịp thời sẽ giúp trẻ ngăn chặn vẹo tiến triển nặng hơn, ngăn chặn được những ca phẫu thuật không đáng có và thay đổi toàn bộ chất lượng cuộc sống của trẻ.
Nguồn: Bệnh viện Việt Đức.
Các vấn đề về cột sống là một trong những biến chứng của bệnh loãng xương, gồm có gãy xương sống và hẹp đốt sống. Sử dụng thuốc, thay đổi lối sống và tập thể dục có thể giúp kiểm soát bệnh loãng xương và phòng ngừa các vấn đề về cột sống.
Loãng xương là một bệnh lý mạn tính phổ biến ảnh hưởng đến sức khỏe xương. Loãng xương là khi khối lượng và mật độ xương giảm, điều này khiến xương trở nên suy yếu và dễ gãy. Bất cứ ai cũng có thể bị loãng xương nhưng có những yếu tố làm tăng nguy cơ, gồm có tuổi tác, giới tính và di truyền. Chế độ ăn uống và lối sống cũng có thể góp phần làm cho xương kém chắc khỏe và có nguy cơ loãng xương cao. Bài viết dưới đây sẽ giải thích ảnh hưởng của gen di truyền đến nguy cơ mắc bệnh loãng xương, tầm quan trọng của việc sàng lọc và các biện pháp phòng ngừa loãng xương.
Tuyến cận giáp hoạt động quá mức có thể làm giảm lượng canxi trong xương, làm tăng nguy cơ loãng xương và các vấn đề sức khỏe liên quan.
Bệnh loãng xương hiện được điều trị bằng thuốc và thay đổi lối sống. Ngoài ra còn các phương pháp điều trị khác hiện đang được nghiên cứu, một trong số đó là liệu pháp tế bào gốc. Mặc dù các nghiên cứu trên động vật cho kết quả đầy hứa hẹn về hiệu quả của tế bào gốc trong điều trị chứng loãng xương nhưng dữ liệu nghiên cứu trên người lại rất hạn chế.